APEC - Vai trò và điểm nhấn mới trong hợp tác kinh tế

Nghiên cứu - Trao đổi
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) thành lập năm 1989, bao gồm 21 nền kinh tế trên vành đai châu Á - Thái Bình Dương.
aa

1. Vai trò và điểm nhấn mới trong hợp tác kinh tế của APEC

Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) thành lập năm 1989, bao gồm 21 nền kinh tế trên vành đai châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có các nền kinh tế lớn nhất thế giới (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…) và 9 thành viên Nhóm 20 nền kinh tế lớn (G20) cùng với nhiều nền kinh tế mới nổi, phát triển năng động, tổng cộng chiếm hơn 38% dân số thế giới, đóng góp 61% GDP và 47% thương mại toàn cầu.

Là thể chế hợp tác mềm - diễn đàn, không có hiến chương hay điều lệ, APEC hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, đồng thuận và không ràng buộc trên cơ sở hợp tác bình đẳng, chia sẻ trách nhiệm, tôn trọng lẫn nhau và vì lợi ích chung. Hoạt động hằng năm của APEC gồm: Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế (lãnh đạo cấp cao của các thành viên); Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế; các hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành về thương mại, tài chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa và các lĩnh vực khác như cải cách cơ cấu, phát triển nguồn nhân lực, du lịch, an ninh lương thực, phụ nữ và kinh tế, y tế, năng lượng, giao thông vận tải, thông tin và truyền thông...; 5 hội nghị các quan chức cao cấp, cùng nhiều hội nghị, hội thảo của các ủy ban, nhóm công tác và các cơ chế cấp làm việc khác thuộc các kênh chính phủ, học giả và doanh nghiệp.

Hợp tác kinh tế của APEC tập trung vào ba trụ cột chính: Tự do hóa thương mại và đầu tư, thuận lợi hóa kinh doanh và hợp tác kinh tế - kĩ thuật.

Năm 1994, các nhà lãnh đạo kinh tế đã thông qua các Mục tiêu Bogor về thương mại và đầu tư tự do và mở đối với các nền kinh tế thành viên phát triển vào năm 2010 và các nền kinh tế thành viên đang phát triển vào năm 2020. Giai đoạn 2014 - 2019, tăng trưởng GDP thực toàn khối đạt trung bình 3,9%/năm và mức tăng trưởng tính trên đầu người đạt 3,1%. Tổng kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ nội khối tăng trưởng trung bình 6,9%/năm; mức thuế quan trung bình theo nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) giảm từ 13,9% xuống 5,2% trong năm 2019; lượng vốn FDI đầu tư vào và ra của các nền kinh tế thành viên APEC tăng trưởng trung bình trên 10%/năm; chi phí giao dịch thương mại nội khối giảm 5% vào các năm 2006, 2010 và 10% vào năm 2015. Mỗi năm, APEC hỗ trợ kinh phí cho khoảng 150 dự án hợp tác và nâng cao năng lực với tổng giá trị lên đến 23 triệu USD.

Năm 2020, các nhà lãnh đạo APEC đã thông qua Tầm nhìn Putrajaya 2040, nhằm xây dựng một “Cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương cởi mở, năng động, kiên cường và hòa bình” vì sự thịnh vượng của tất cả người dân và các thế hệ tương lai, trên cơ sở thúc đẩy ba trụ cột hợp tác về thương mại và đầu tư; đổi mới và số hóa; tăng trưởng mạnh mẽ, cân bằng, an toàn, bền vững và bao trùm; cam kết nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò quản trị toàn cầu của APEC.

Năm 2021, các nhà lãnh đạo APEC đã thông qua Kế hoạch Aotearoa đề ra các mục tiêu và hành động cụ thể nhằm triển khai tầm nhìn APEC đến năm 2040 với ba phần chính: Mục tiêu, cam kết hành động của riêng từng nền kinh tế và cam kết hành động chung đối với ba trụ cột hợp tác của tầm nhìn; đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động APEC với vai trò là một thể chế với các mục tiêu cụ thể đến năm 2025; rà soát và đổi mới kế hoạch hành động và kết quả thực hiện giám sát các mục tiêu hằng năm; rà soát 5 năm thực hiện các cam kết; rà soát giữa kì các mục tiêu và hành động.

Năm 2022 là năm đầu tiên Diễn đàn triển khai Kế hoạch Aotearoa về tầm nhìn APEC đến năm 2040, với tầm nhìn về một APEC “Mở với tất cả cơ hội, kết nối trên mọi phương diện, cân bằng trên mọi khía cạnh”. Nội dung hợp tác kinh tế APEC tập trung vào ba ưu tiên, gồm: Thương mại và đầu tư mở với tất cả các cơ hội; khôi phục kết nối trên mọi phương diện; thúc đẩy tăng trưởng cân bằng, bền vững và bao trùm trên mọi khía cạnh.

Đặc biệt, Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo APEC về các Mục tiêu Bangkok về mô hình kinh tế sinh học - tuần hoàn - xanh được thông qua là sự kiện đánh dấu lần đầu tiên APEC đặt ra mục tiêu toàn diện cho các vấn đề môi trường và khí hậu khi trong bối cảnh quá trình phục hồi của kinh tế toàn cầu đối mặt với cùng lúc nhiều thách thức như lạm phát leo thang, căng thẳng địa chính trị, biến đổi khí hậu và đại dịch Covid-19. Đây cũng chính là thông điệp mạnh mẽ về hợp tác, đối thoại và chủ nghĩa đa phương, minh chứng cho thấy APEC tiếp tục có vai trò diễn đàn hàng đầu khu vực và là cơ chế quan trọng tại châu Á - Thái Bình Dương thúc đẩy các nỗ lực đa phương xây dựng các chuỗi cung ứng tự cường, đối phó với các vấn đề liên quan đến thương mại đang nổi lên như y tế, kinh tế số, biến đổi khí hậu, tạo thuận lợi và khôi phục đi lại qua biên giới an toàn, thông suốt, tạo động lực phục hồi kinh tế, chuẩn bị cho tăng trưởng dài hạn và từng bước hiện thực hóa Khu vực thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP)...

Cũng tại APEC 2022, Việt Nam nỗ lực đề xuất và ủng hộ về nội dung hợp tác cần bảo đảm môi trường thương mại và đầu tư mở, minh bạch, không phân biệt đối xử; thúc đẩy mô hình tăng trưởng cân bằng, bao trùm và bền vững, hỗ trợ các nền kinh tế chuyển đổi xanh, chuyển đổi số thành công; đảm bảo sự “cân bằng” trong hợp tác bao gồm: Coi người dân là trung tâm để tạo sự cân bằng trong mỗi nền kinh tế giữa các lĩnh vực, giữa các thành phần xã hội; cân bằng về lợi ích và trách nhiệm giữa các nền kinh tế, các khu vực. Mục tiêu là chung, nhưng các biện pháp cụ thể phải được điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù, trình độ phát triển của mỗi nơi; cân bằng giữa bảo đảm tính tự chủ, tự cường của mỗi nền kinh tế và chủ động mở cửa, hội nhập, liên kết kinh tế; cân bằng giữa đổi mới, chuyển đổi với bảo đảm sự ổn định. Quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh phải được thực hiện sao cho đạt hiệu quả cao về kinh tế nhưng giảm thiểu tác động, xáo trộn đến an sinh xã hội, giữ vững an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh mạng.

Những đề xuất của Việt Nam nhận được sự hưởng ứng, đánh giá cao và được thể hiện trong văn kiện bởi có tính đến lợi ích của tất cả các thành phần trong xã hội, các nền kinh tế, cũng như cân bằng giữa lợi ích ngắn hạn và dài hạn. Việt Nam đã cùng các thành viên chủ động tạo thêm kênh trao đổi để thu hẹp khác biệt, tìm kiếm tiếng nói chung, duy trì đồng thuận, đóng góp cho thành công của hội nghị.

Năm 2023, Mỹ đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 30 từ ngày 15 - 17/11/2023 tại San Francisco với chủ đề “Tạo dựng một tương lai kiên cường và bền vững cho tất cả mọi người”. APEC cam kết thúc đẩy khả năng phục hồi chuỗi cung ứng, thương mại kĩ thuật số, kết nối, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, biến đổi khí hậu và sự bền vững môi trường, bảo đảm an ninh lương thực, y tế, chống tham nhũng, số hóa, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ các cộng đồng yếu thế, dựa trên ba ưu tiên nhấn mạnh là kết nối với nhau, đổi mới và toàn diện.


Phiên toàn thể Hội nghị Bộ trưởng Thương mại (MRT) APEC lần thứ 29 (Nguồn: Internet)


Theo đó, APEC đang nỗ lực triển khai các chiến lược, chương trình hợp tác lớn gồm: Chương trình nghị sự tăng cường về cải cách cơ cấu; Lộ trình cạnh tranh dịch vụ đến năm 2025; Kế hoạch kết nối tổng thể đến 2025; Chương trình nghị sự phát triển bao trùm về kinh tế, tài chính, xã hội đến 2030; Khuôn khổ phát triển nguồn nhân lực trong kỉ nguyên số đến 2025; Lộ trình La Serena về phụ nữ và tăng trưởng bao trùm đến 2030.

Bên cạnh đó, vai trò APEC còn thể hiện trong thực tiễn nhiều liên kết kinh tế quy mô lớn đã bắt nguồn từ APEC và các thành viên. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Khuôn khổ Đối tác toàn diện kinh tế khu vực (RCEP) là những minh chứng sống động. Các thành viên APEC cũng đang triển khai kế hoạch chung về kết nối, tạo thuận lợi trong việc đi lại của doanh nhân, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng… Liên kết kinh tế APEC nhờ đó ngày càng sâu, rộng, đóng góp thiết thực hơn vào việc củng cố các giá trị và vai trò của hệ thống thương mại đa phương.

Với những điểm nhấn mới đó, nên dù đa dạng về thể chế, trình độ phát triển, lợi ích cốt lõi, vị thế quốc tế và đã trải qua hơn 1/3 thế kỉ hình thành và phát triển, APEC vẫn tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu, cùng với các nền tảng đa phương khác, góp phần định hình lại trật tự thế giới, hướng đến mô hình công bằng hơn, thúc đẩy luật lệ, quy tắc quốc tế để thích ứng với thay đổi qua thời gian; định hướng và thúc đẩy xu thế tự do hóa kinh tế, thương mại, đầu tư trong khu vực và trên thế giới, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương...

2. Việt Nam - thành viên có trách nhiệm trong APEC

Việt Nam là thành viên chính thức số 21 của APEC từ ngày 15/11/1998. APEC có ý nghĩa quan trọng cả về an ninh và kinh tế của Việt Nam, bởi Diễn đàn này quy tụ 15/30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện là các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu, chiếm hơn 77% thương mại, gần 81% đầu tư trực tiếp và hơn 85% du lịch của nước ta. 17/20 thành viên APEC là đối tác trong số 13/17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đang triển khai/đàm phán...
Trong 25 năm tham gia APEC, nhất quán với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ngày càng chứng tỏ mình là thành viên có trách nhiệm, chủ động và đóng góp tích cực vào hoạt động chung của APEC.

Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò chủ nhà APEC (hai lần vào các năm 2006 và 2017); vị trí Giám đốc điều hành Ban Thư kí APEC (năm 2005 - 2006); Chủ tịch/Phó Chủ tịch nhiều ủy ban và nhóm công tác chủ chốt trong APEC như Ủy ban Thương mại và Đầu tư, Ủy ban Quản lí ngân sách, các nhóm công tác về doanh nghiệp nhỏ và vừa, y tế, đối phó với tình trạng khẩn cấp...; vai trò Chủ tịch, Phó Chủ tịch 18 ủy ban, nhóm công tác của APEC và Hội đồng Tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC) trong giai đoạn 2016 - 2018 được các thành viên đánh giá cao. Việt Nam cũng đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch Nhóm ASEAN trong APEC năm 2022.

Đặc biệt, Việt Nam là một trong những thành viên tích cực nhất trong đề xuất hơn 100 dự án trên nhiều lĩnh vực. Nhiều sáng kiến do Việt Nam đề xuất được cộng đồng APEC hoan nghênh vì tính thiết thực, đáp ứng quan tâm và lợi ích chung, nhất là các sáng kiến về phát triển bền vững, bao trùm, phát triển nguồn nhân lực trong kỉ nguyên số, thúc đẩy kinh tế số, thu hẹp khoảng cách số tạo thuận lợi thương mại điện tử qua biên giới; các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa xanh, bền vững và sáng tạo; an ninh lương thực, ứng phó biến đổi khí hậu, xử lí rác thải đại dương; nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, phát triển nông thôn và đô thị…

Với vai trò Phó Chủ tịch Nhóm xây dựng Tầm nhìn APEC, Việt Nam đã chủ động tham gia dẫn dắt, điều phối quá trình xây dựng Báo cáo khuyến nghị của Nhóm xây dựng Tầm nhìn APEC với tiêu đề “Người dân và thịnh vượng: Tầm nhìn APEC đến 2040”. Với Tầm nhìn APEC đến năm 2040 và Kế hoạch Aotearoa triển khai tầm nhìn được các nhà lãnh đạo 21 nền kinh tế thành viên thông qua, APEC đã hoàn tất thực hiện sáng kiến do Việt Nam khởi xướng và được thông qua tại Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 25 diễn ra tháng 11/2017 tại thành phố Đà Nẵng.

Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng đóng góp nhiều đề xuất và khuyến nghị lên các nhà lãnh đạo, các bộ trưởng APEC và trực tiếp tham gia triển khai nhiều hoạt động hợp tác liên kết kinh tế khu vực.

Tham gia APEC giúp Việt Nam đẩy mạnh triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và nâng tầm đối ngoại đa phương, nâng cao vị thế quốc tế; thúc đẩy quan hệ song phương, góp phần tạo đan xen lợi ích dài hạn và đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước; thực hiện các cam kết về mở cửa thương mại, đầu tư, thuận lợi hóa kinh doanh, góp phần tạo động lực thúc đẩy cải cách trong nước, từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định phù hợp với các cam kết quốc tế; tạo tiền đề để Việt Nam tham gia vào những sân chơi rộng lớn và có mức độ cam kết cao hơn như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các FTA, trong đó có những FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao. Việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng là đòn bẩy để hiện thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm khiết, kiến tạo, hành động phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Việc triển khai các cam kết, đồng bộ hóa chính sách, cùng các dự án hỗ trợ của APEC đã góp phần nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, tăng cường kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập. Các chương trình hợp tác về tăng cường trao đổi sinh viên, thúc đẩy du lịch, giao lưu nhân dân... thực sự đem lại nhiều cơ hội lớn đối với người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

APEC mang đến những tiềm năng và cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đối thoại giữa các nhà lãnh đạo APEC với ABAC và Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC hằng năm là dịp quan trọng để cộng đồng doanh nghiệp đề xuất khuyến nghị lên các nhà lãnh đạo, chủ động tham gia đóng góp xây dựng chính sách liên kết kinh tế khu vực, đồng thời tạo khuôn khổ để doanh nghiệp Việt Nam kết nối với các tập đoàn hàng đầu thế giới. APEC cũng hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiếp cận thị trường, hưởng môi trường đầu tư, kinh doanh và điều kiện đi lại thuận lợi, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược, tiếp cận công nghệ và trình độ quản lí tiên tiến.

Việt Nam sẽ tiếp tục đồng hành cùng APEC trên chặng đường phát triển sắp tới, chung tay xây dựng tầm nhìn chiến lược về cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng động, sáng tạo, gắn kết và thịnh vượng.

Trong thời gian tới, trên cơ sở phát huy các thành quả và kinh nghiệm đã có, Việt Nam cần tiếp tục chủ động xây dựng và triển khai các nội dung cam kết trong APEC; tăng cường phối hợp chặt chẽ và hiệu quả trong chủ trì hoặc đồng chủ trì các dự án hợp tác của APEC về kinh tế tuần hoàn, xử lí rác thải cứng đại dương, thương mại điện tử, nâng cao quyền năng cho phụ nữ, ứng phó biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, y tế biển, kết nối chuỗi cung ứng tự cường, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Chính phủ, chính quyền các cấp cần đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, nâng cao năng lực phản ứng chính sách và phản ứng thị trường, tranh thủ tốt các nguồn lực của APEC, vượt qua các hạn chế nội tại nhằm góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế bền vững, thích ứng kịp thời với mọi biến động nhanh chóng của bối cảnh khu vực và thế giới.

Tài liệu tham khảo:

1. https://www.vietnamplus.vn/hoi-nghi-apec-2022-tam-nhin-toan-dien-de-phuc-hoi-ben-vung/np;
2. https://sngv.thuathienhue.gov.vn/?
3. https://special.nhandan.vn/Vietnam-APEC-CTN-Nguyen-Xuan-Phuc/index.html?
4. https://sbv.gov.vn

TS. Nguyễn Minh Phong

ThS. Nguyễn Trần Minh Trí
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng