Agribank tiên phong đầu tư phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao

Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) xác định cho vay nông nghiệp, nông dân, nông thôn là trọng tâm, trong đó nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là lĩnh vực được ưu tiên, với nhiều giải pháp hỗ trợ phát triển bền vững.
aa

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng tất yếu của ngành Nông nghiệp Việt Nam hiện nay và là một trong những lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) xác định cho vay nông nghiệp, nông dân, nông thôn là trọng tâm, trong đó nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là lĩnh vực được ưu tiên, với nhiều giải pháp hỗ trợ phát triển bền vững.

Ưu tiên nguồn vốn phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao

Với vai trò chủ lực trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Agribank luôn dành 60 - 70% tổng dư nợ đầu tư cho lĩnh vực này và chiếm trên 50% thị phần tín dụng dành cho “Tam nông”. Agribank đồng thời triển khai hiệu quả nhiều chương trình tín dụng chính sách và các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững… giúp khách hàng được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho lĩnh vực nông nghiệp và yên tâm sản xuất, kinh doanh.



Agribank chủ động và tích cực đầu tư phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao

Agribank không ngừng nỗ lực cải tiến quy trình, áp dụng công nghệ, rút gọn thời gian thẩm định dự án, phương án vay vốn, đồng thời tiết giảm chi phí để mở rộng vốn cho đầu tư tín dụng, giúp khách hàng tiếp cận vốn vay một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, Agribank phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các bộ, ban, ngành nhằm triển khai các dự án phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Agribank đang tích cực thực hiện chính sách về thúc đẩy ngân hàng xanh, cam kết áp dụng tiêu chuẩn ESG và tích hợp vào chiến lược kinh doanh để góp phần xanh hóa hoạt động ngân hàng, bảo vệ môi trường và hỗ trợ cộng đồng.

Agribank là Ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Theo đó, giảm lãi suất cho vay từ 0,5%/năm đến 1,5%/năm cho khách hàng tham gia vào chuỗi sản xuất nông nghiệp sạch. Bên cạnh đó, khách hàng vay vốn theo chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch của Agribank được miễn, giảm các loại phí dịch vụ… doanh số cho vay từ khi bắt đầu triển khai chương trình của Agribank đã đạt trên 25.000 tỉ đồng.

Agribank tích cực và chủ động tham gia các chương trình, đề án, dự án như: Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và giảm phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030; dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học; dự án nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững; quản lý rủi ro thiên tai; hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp; cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng; điện gió; đưa vốn tín dụng vào công cuộc chống hạn, mặn vùng ĐBSCL…

Nhiều vùng nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao đã được phát triển từ nguồn vốn Agribank

Từ nguồn vốn Agribank, nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất đã phát triển kinh tế, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương, nhiều vùng nông nghiệp sạch, công nghệ cao đã được hình thành trên khắp cả nước.

Gia đình anh Đinh Công Vàng (tỉnh Ninh Thuận) trước đây, buôn bán dưa lưới được khoảng 10 năm, sau này nhờ vay vốn Agribank, gia đình anh mới bắt đầu phát triển mô hình trồng dưa lưới, thu nhập cũng vì thế ổn định hơn. Với hơn 7 sào trồng dưa lưới theo mô hình công nghệ cao từ vốn đầu tư ban đầu 450 triệu/sào. Vốn vay 1,7 tỉ đồng từ Agribank được gia đình anh Đinh Công Vàng sử dụng trong xây dựng cơ bản, áp dụng kỹ thuật mới vào trồng trọt, góp phần không nhỏ giúp tăng năng suất và nâng cao chất lượng đầu ra cho nông sản.

Nhờ ứng dụng công nghệ tự động vào hệ thống tưới tiêu, phân bón, trang trại dưa lưới của gia đình anh Đinh Công Vàng đã giảm bớt được số lượng nhân công, tăng năng suất lao động, tiết kiệm được không ít chi phí trong quá trình trồng trọt. Anh Đinh Công Vàng chia sẻ: Agribank đã hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp và luôn tạo điều kiện cho khách hàng được vay tối đa để đầu tư cho sản xuất.

Tới thăm Trang trại Huy - Toan (thuộc Công ty TNHH Huy Toan, tỉnh Điện Biên) - Công ty gia đình hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt trên diện tích hơn 13 héc-ta, tạo công ăn việc làm cho hơn 20 lao động thường xuyên và 20 lao động thời vụ, có thể thấy rõ trợ lực của ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế gia đình và địa phương. Công ty TNHH Huy Toan có quan hệ tín dụng với Agribank từ năm 2009 với số tiền vay ban đầu là 2 tỉ đồng và đến năm 2024, Công ty đã mở rộng kinh doanh với số tiền vay 9 tỉ đồng. Sau 15 năm, quy mô của Công ty đã phát triển lớn mạnh với một trang trại chăn nuôi, trồng cây có hệ thống tưới tiêu hiện đại hàng đầu trong tỉnh Điện Biên với tổng giá trị khoảng 60 tỉ đồng.

Khu chăn nuôi của trang trại đang nuôi gần 17.000 con gà thịt và gà đẻ trứng với tiếng nhạc bolero du dương, nhè nhẹ trong không gian xanh màu lá và không khí dễ chịu bởi hệ thống làm mát, khử mùi hôi… tất cả được ứng dụng công nghệ và sắp xếp khoa học. Chị Toan - chủ trang trại cho biết: Trang trại là cơ nghiệp cả đời, nên hai vợ chồng luôn tìm cách để áp dụng công nghệ, mang lại năng suất cao, hạn chế thất thoát. Bên cạnh chăn nuôi thành công, vợ chồng chị Toan, anh Huy cũng rất thành công trong việc trồng trọt ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt là trồng bưởi da xanh, giống bưởi có nguồn gốc ở Bến Tre, cho năng suất và chất lượng vượt trội.


Nhiều năm liên tiếp, Agribank được vinh danh “Ngân hàng hỗ trợ đầu tư nông nghiệp công nghệ cao tiêu biểu”

Những nỗ lực của Agribank trong phát triển lĩnh vực nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao đã được phát triển từ Bắc vào Nam trên dải đất hình chữ S, mang lại sự phát triển ổn định về kinh tế cho nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp.

Một số vùng sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao từ nguồn vốn Agribank như: Dự án nhà máy chế biến rau quả thực phẩm, nông sản xuất khẩu tại các tỉnh An Giang, Vĩnh Long (doanh số cho vay hơn 4.100 tỉ đồng); các dự án nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi bò sữa tại tỉnh Ninh Thuận (doanh số cho vay hơn 3.700 tỉ đồng); dự án chế biến và kinh doanh lúa gạo tại tỉnh Đồng Tháp (doanh số cho vay gần 2.300 tỉ đồng); dự án sản xuất thức ăn chăn nuôi sạch tại tỉnh Hà Nam (doanh số cho vay gần 5.000 tỉ đồng); dự án chế biến thủy, hải sản tại thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiên Giang (doanh số cho vay trên 3.500 tỉ đồng).

Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần vốn đầu tư rất lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư sản xuất giống cây trồng, nhập thiết bị, đào tạo nhân lực và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì lẽ đó, việc Agribank hỗ trợ vốn có vai trò quan trọng trong việc tái cơ cấu nền nông nghiệp, mang lại ý nghĩa và lợi ích rất lớn cho người nông dân.

Ứng dụng khoa học, công nghệ cao trong sản xuất góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương, vùng, miền trên cả nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chính vì thế, đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao theo định hướng của Chính phủ, NHNN là mục tiêu quan trọng trong chiến lược kinh doanh của Agribank, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Hương Giang (Hà Nội)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Chương trình tín dụng vi mô là một bộ phận quan trọng của thị trường tín dụng chính thức ở khu vực nông thôn Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Việc tham gia các chương trình này mang lại cho phụ nữ nhiều cơ hội việc làm, tăng sự tự tin, nâng cao kỹ năng giao tiếp, khả năng quản lý tài chính cá nhân, tiếp cận tri thức và mở rộng cơ hội lựa chọn trong đời sống. Nhờ đó, họ có điều kiện khẳng định vai trò và quyền ra quyết định của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam - dù được hình thành từ rất sớm và đóng vai trò đặc thù là tổ chức tài chính cộng đồng cấp cơ sở - vẫn gần như đứng ngoài dòng vận động ESG quốc tế.
Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân cho vay nhà ở xã hội đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng. Tuy nhiên so với quy mô chương trình, doanh số giải ngân vẫn chưa được như kỳ vọng.
Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15, hoạt động trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Cà Mau, đóng vai trò trụ cột trong việc dẫn vốn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế địa phương. Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2025 đạt mức từ 8,5% trở lên.
Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang đối mặt với nhiều biến động khó lường, cùng với quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, rủi ro liên quan đến thẻ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Việc kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ, quản trị rủi ro chủ động và nâng cao nhận thức người tiêu dùng sẽ là nền tảng quan trọng giúp thị trường thẻ tín dụng Việt Nam phát triển an toàn, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Xem thêm
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô