Xung đột Nga - Ukraine: Kinh tế châu Âu liệu có rơi vào suy thoái?

Quốc tế
Mặc dù nhiều doanh nghiệp ở châu Âu vẫn đang tiếp tục phục hồi sau hậu đại dịch Covid-19 nhưng cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã làm tăng thêm một cú sốc về nguồn cung tại đây.
aa

Mặc dù nhiều doanh nghiệp ở châu Âu vẫn đang tiếp tục phục hồi sau hậu đại dịch Covid-19 nhưng cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã làm tăng thêm một cú sốc về nguồn cung tại đây. Với đặc thù là khu vực nhập khẩu nhiều mặt hàng chủ chốt từ Nga/Ukraine, châu Âu trở nên dễ bị tổn thương hơn so với các nền kinh tế lớn khác trên thế giới. Bài viết dưới đây sẽ xem xét một số kênh chính mà thông qua đó suy thoái kinh tế tại châu Âu có thể hình thành và những yếu tố nào có thể làm giảm bớt hoặc giảm thiểu tác động này? Lạm phát sẽ cao hơn đáng kể trong năm 2022 nhưng suy thoái kinh tế nhiều khả năng sẽ áp đảo. Đây cũng là hệ quả hợp lý dựa trên các diễn biến kinh tế gần đây, bao gồm cả những tác động xoay quanh các biện pháp trừng phạt tiếp theo mà phương Tây có thể áp đặt.

Rủi ro đối với triển vọng kinh tế khu vực châu Âu trong ngắn hạn đang gia tăng. Cuộc xung đột ở Ukraine đã làm tăng thêm một cú sốc về “nguồn cung”

Cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine và các đòn trừng phạt tài chính của phương Tây lên Nga không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế đối với riêng Nga mà còn đặt ra rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu, gây biến động đến thị trường tài chính và khiến cuộc sống của người dân trên thế giới đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Trong đó, châu Âu là một trong số khu vực cũng chịu tác động tương đối rộng và sâu từ diễn biến này, trong khi những tác động từ đại dịch Covid-19 vẫn chưa được bù đắp (tăng trưởng thấp, lạm phát cao) thì dư chấn từ xung đột Nga - Ukraine có thể dễ dàng làm trầm trọng thêm tác động.

Mức độ ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế khu vực châu Âu nói riêng sẽ phụ thuộc vào thời gian và phạm vi của cuộc xung đột và vào mức độ nghiêm trọng của các lệnh trừng phạt của phương Tây, cũng như vào khả năng Nga có thể trả đũa.

Tác động của cuộc xung đột và các lệnh trừng phạt

Theo nghiên cứu của RaboBank, tác động tiềm tàng của cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine dự kiến có thể định lượng gồm 2 kịch bản chính:

Kịch bản A (“chiến tranh”): Giả định một cuộc chiến tranh ngắn hạn và gián đoạn, dẫn đến gián đoạn thương mại toàn cầu tối đa là 6 tháng, kèm theo đó là sự sụt giảm đáng kể trong thương mại Liên minh châu Âu (EU) - Nga nói riêng. Phí bảo hiểm rủi ro gia tăng ở mức vừa phải. Giá năng lượng, bao gồm cả khí đốt tăng mạnh (giá dầu lên 125 USD/thùng), nhưng sẽ giảm trở lại sau 4 tháng. Giá lương thực cũng tăng mạnh, với lúa mì tăng 30% và ngô tăng 20%, giá phân bón cũng tăng (+20%).

Kịch bản B (“chiến tranh và các biện pháp trừng phạt hiệu quả”): Cũng bắt đầu như kịch bản A, thêm giả định rằng các biện pháp trừng phạt áp đặt đối với Nga là hiệu quả, từ đó làm thay đổi mô hình thương mại toàn cầu. Hệ quả là giá năng lượng tăng mạnh hơn và ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn nữa. Giá thực phẩm, phân bón và dầu thực vật cũng tăng mạnh hơn trong kịch bản này. Phí bảo hiểm rủi ro tăng lên để phù hợp với mức giá gia tăng như đã chứng kiến trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào năm 2003.

Đồ thị 1 và 2 hiển thị kết quả tác động của chiến tranh lên tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia tại khu vực châu Âu và Anh giai đoạn 2022 - 2024. Có thể thấy, tác động của “Kịch bản A” nhỏ hơn đáng kể so với tác động của “Kịch bản B”. Do tác động lớn hơn và kéo dài của cú sốc giá hàng hóa, “Kịch bản B” rõ ràng cũng có tác động lớn trong năm tới.

Đồ thị 1: Tác động của chiến tranh lên tăng trưởng GDP theo 2 kịch bản

Nguồn: RaboBank



Đồ thị 2: Tác động tích lũy (% GDP) giai đoạn 2022 - 2024


Nguồn: RaboBank

Ngay sau khi chiến sự xảy ra, nhiều lệnh trừng phạt đã được áp dụng lên Nga, điều này có thể khiến hoạt động thương mại của EU với Nga đối diện với nguy cơ sụp đổ. Giá than và khí đốt ở châu Âu tăng vọt do lo ngại nguồn cung bị gián đoạn, trong khi giá dầu có thời điểm đã tăng lên 120 USD/thùng. Giá một số mặt hàng khác như lúa mì, ngô, phân bón và nhôm, paladi, niken cũng tăng đáng kể do Ukraine và Nga chiếm 30% sản lượng lúa mì xuất khẩu, 19% sản lượng ngô xuất khẩu và 80% sản lượng dầu hướng dương xuất khẩu của thế giới.

Bảng 1: Nhóm 10 quốc gia xuất/nhập khẩu sang/từ Nga


Ghi chú: Hoạt động thương mại với Nga được tính theo % tổng giá trị thương mại hàng hóa năm 2019.

Nguồn: Macrobond, IMF

Tổng kim ngạch xuất khẩu của EU sang Nga ở mức 0,6% GDP vào năm 2019 và nhập khẩu ở mức 1% GDP, mức khá thấp. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia, rủi ro thương mại là rất đáng kể. Bảng 1 cho thấy có nhiều quốc gia tại EU chịu ảnh hưởng đáng kể do có quan hệ thương mại và độ mở rất lớn với Nga.

Phản ứng thống nhất của các chính phủ phương Tây chỉ ra rằng bất kỳ hành động trả đũa nào của Nga sẽ phải đối mặt với việc phương Tây tăng cường thêm các biện pháp trừng phạt. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng Nga cũng có thể chiếm đoạt tài sản của các công ty EU tại Nga. Đồ thị 3 cho thấy, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Nga đạt 288 tỷ EUR vào năm 2017 (1,8% GDP).

Đồ thị 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào EU, vào Nga và ngược lại (tỷ EUR)


Ghi chú: Số liệu EU đầu tư trực tiếp vào Nga năm 2018 hiện chưa có thống kê

Nguồn: Macrobond, Eurostat


Cú sốc nguồn cung lớn nhất kể từ năm 1979, nguy cơ đẩy lạm phát tiếp tục gia tăng

Có 2 kênh chính mà cuộc xung đột này ảnh hưởng đến các nền kinh tế châu Âu là: (1) Liên quan đến các “điều khoản thương mại”, các nền kinh tế châu Âu phải xuất khẩu nhiều hơn để thanh toán cho một khối lượng nhập khẩu nhất định; và (2) Sự không có sẵn của các mặt hàng và đầu vào quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn châu Âu. Đối với cú sốc cung, đường cung dịch chuyển lên trên và sang trái, đẩy giá lên cao. Cuộc xung đột Nga - Ukraine đang gây ra một cú sốc về giá hàng hóa. Theo nghiên cứu của Rabobank, cú sốc nguồn cung hiện nay có mức độ lớn nhất kể từ năm 1979 (Đồ thị 4). Mặc dù cú sốc hiện tại bị che mờ hơn bởi thực tế giá hàng hóa đã bị giảm mạnh trong thời gian đầu của giai đoạn đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, ngay cả so với mức độ trước đại dịch (trước năm 2019), giá hàng hóa đã tăng hơn đáng kể so với một số cú sốc nguồn cung lớn trong lịch sử.

Đồ thị 4: So sánh các cú sốc cung trong lịch sử

Nguồn: Macrobond

Với sự phụ thuộc rất lớn vào năng lượng từ Nga (gần 40% lượng khí đốt tự nhiên và 25% sản lượng dầu nhập khẩu), cuộc xung đột này có thể sẽ khiến tình trạng lạm phát tại châu Âu diễn ra nhanh hơn và tồi tệ hơn. Lạm phát tháng 02/2022 của khu vực EU đã tăng lên mức cao kỷ lục 5,9%, trong đó năng lượng đóng góp vào mức tăng lớn nhất (32%).

Nhiều tổ chức hạ dự báo tăng trưởng kinh tế châu Âu trong khi nâng dự báo tỷ lệ lạm phát

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) hạ dự báo tăng trưởng, nâng tỷ lệ lạm phát; tiếp tục duy trì lãi suất thấp kỷ lục: Đối với tăng trưởng kinh tế, ECB (ngày 10/3/2022) đã hạ dự báo tăng trưởng khu vực năm 2022 xuống còn 3,7% (dự báo trước đó 4,2%) do lo ngại quá trình phục hồi kinh tế chậm lại bởi ảnh hưởng của xung đột Nga - Ukraine. Năm 2023, GDP cũng sẽ chỉ tăng trưởng 2,8% (dự báo trước đó: 2,9%). Đồng thời, nâng lạm phát lên đáng kể trong bối cảnh giá năng lượng tăng mạnh; tăng lên 5,1% năm 2022, từ mức 3,2% được dự báo trước đó. Lạm phát năm 2023 và 2024 sẽ lần lượt ở các mức 2,1% và 1,9%, cao hơn mức dự báo 1,8% trước đó.

Trong bối cảnh lạm phát tăng mạnh, cao hơn nhiều so với mức mục tiêu 2% mà ECB đề ra, ECB có kế hoạch kết thúc chính sách kích thích kéo dài nhiều năm qua vào quý III/2022. Đến hiện tại, ECB cũng tạm thời chưa quyết định về việc nâng lãi suất và vẫn duy trì lãi suất ở mức thấp nhất trong lịch sử.

Các nhà kinh tế thuộc Tập đoàn dịch vụ tài chính Credit Suisse (ngày 9/3/2022) đã hạ dự báo tăng trưởng của châu Âu xuống khoảng 1% trong năm 2022 trong bối cảnh giá hàng hóa “phi mã” và đứt gãy chuỗi cung ứng.

Ngân hàng Barclays (tháng 3/2022) đã cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của khu vực năm 2022 còn 2,4%, giảm 1,7 điểm % so với mức dự báo trước đó; nâng dự báo lạm phát lên 5,6%, cao hơn 1,9 điểm % so với trước đó.

Như vậy, có thể thấy từ các phân tích trên đây, xung đột giữa Nga - Ukraine đang mở đường cho giai đoạn “stagflation” - một thời kỳ với lạm phát tăng nóng và tăng trưởng kinh tế nguội lạnh. Một trường hợp điển hình của “stagflation” trong lịch sử là vào những năm 1970, khi cú sốc nguồn cung năng lượng toàn cầu “đốn gục” các phát triển trên thế giới.

“Stagflation” sẽ là điều rất thách thức và vô cùng khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế, vì khi phải đối mặt với tình trạng như vậy, nếu họ ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng thì lại đồng nghĩa với “tiếp lửa” cho lạm phát, còn nếu họ ra sức chống lạm phát thì tăng trưởng chắc chắn sẽ tổn thất. Các nhà hoạch định chính sách của ECB vốn có ý định tiếp tục các chính sách kích thích kinh tế hậu đại dịch Covid-19, nhưng giá dầu tăng lên mức cao nhất trong 14 năm khiến triển vọng tăng trưởng kinh tế chậm lại. Họ đang phải vật lộn với việc làm thế nào để giảm lạm phát mà không dẫn đến sự phục hồi kinh tế đi chệch hướng.

ThS. Nguyễn Thị Thúy Linh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng