Vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII

Hoạt động ngân hàng
TS. Đặng Công Thức Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra một số mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, đó là, đến năm 2020...
aa

TS. Đặng Công Thức

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra một số mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, đó là, đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm; thực hiện giảm nghèo bền vững;...

Vậy tại sao lại cần phải phát huy vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội (NHCS XH) Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu quan trọng nói trên? Bởi vì NHCS XH là một định chế tài chính của nhà nước, hoạt động phi lợi nhuận, đối tượng phục vụ chủ yếu là các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình chính sách; hộ gia đình vùng khó khăn, vùng xa, vùng sâu, vùng biên giới hải đảo,… Do đó, thông qua việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng chính sách do NHCS XH thực hiện, góp phần nâng cao thu nhập của người nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, sẽ góp phần nâng cao thu nhập GDP bình quân đầu người, giảm tỷ lệ hộ nghèo một cách bền vững; tạo việc làm cho người dân đô thị và các vùng nông thôn; cải thiện điều kiện vệ sinh, nước sạch và môi trường cho người dân,…

Một lý do rất quan trọng thứ hai đó là NHCS XH có màng lưới rộng, bao gồm các điểm giao dịch tại 100% số xã trong toàn quốc, có gần 190.000 Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) của 4 tổ chức chính trị - xã hội ở tất cả các bản làng, thôn xóm. Do đó, phát huy vai trò của NHCS XH cho phép phủ kín chính sách tín dụng đến toàn bộ các đối tượng cần được nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống.
Lý do thứ ba đó là, các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc, hộ khó khăn,…chính là những người cần được các chính sách tín dụng xã hội hướng đến để tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khả năng tính toán hiệu quả việc sử dụng vốn vay, được trang bị kiến thức kinh tế thị trường… Do đó, để phát triển bền vững kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường,… cần tiếp tục phát huy vài trò của NHCS XH Việt Nam trong tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức của nhà nước qua đối tượng dân cư này trong xã hội.
Sau 8 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo, đến năm 2003, thực hiện các đề án tái cơ cấu các TCTD và đổi mới hoạt động tín dụng chính sách, xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thời kỳ hội nhập sâu rộng vào công đồng quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg, ngày 04/10/2002, về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế tài trợ phù hợp, góp phần thực hiện tốt nhất mục tiêu hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam được thành lập dựa trên nền tảng của Ngân hàng phục vụ người nghèo, tiếp nhận hoạt động tín dụng sinh viên do Ngân hàng công thương Việt Nam và tín dụng giải quyết việc làm do Kho bạc nhà nước thực hiện trước đó chuyển giao sang. Đến nay sau hơn 15 năm hoạt động với những kết quả đạt được, NHCSXH đã và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong thực hiện giải pháp tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra và được phân tích rõ hơn dưới đây:
Những cơ sở khoa học và thực tiễn đảm bảo khả năng của NHCSXH Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu quan trọng nói trên về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
Có thể khẳng định, Đảng, Chính phủ thành lập và đưa vào hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội là một chủ trương đúng, sáng tạo có tính đặc thù, phù hợp với thực tiễn kinh tễ - xã hội của Việt Nam, đóng góp hết sức quan trọng vào thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn bền vững, hội nhập, thông qua đó, thực hiện các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước phục vụ các dối tượng dân cư bị thiệt thòi, bị khó khăn... Cụ thể:
a/ Hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội góp phần đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, thu hút toàn thể hội viên của các tổ chức này có cơ hội được hưởng thụ các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước với nhiều ưu đãi và cách làm phù hợp với thực tiễn.
NHCSXH Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội thành lập được 187.151 Tổ TK&VV hoạt động tại thôn, ấp, bản, làng. Tổ TK&VV là nơi giúp hộ vay thực hiện các thủ tục vay vốn, tổ chức sinh hoạt tương trợ giúp đỡ nhau, đảm bảo thực hiện cơ chế dân chủ, vừa là nơi để ngân hàng đưa các nghiệp vụ về cơ sở phục vụ hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác hiệu quả hơn.
Tổ Tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) của Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, với 6.734.682 hội viên tại khắp thôn, bản trong cả nước, với hàng trăm ngàn cán bộ không biên chế đang sát cánh cùng NHCS XH Việt Nam trong công cuộc “xóa đói giảm nghèo”, góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước.
Hoạt động nhận ủy thác từ NHCSXH đã tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp lực lượng, củng cố, nâng cao cả về số lượng, chất lượng phong trào hoạt động, tăng số lượng hội viên, góp phần củng cố hệ thống chính trị cơ sở, giúp người nghèo có điều kiện được sinh hoạt tại các tổ chức chính trị - xã hội, qua đó được tiếp cận với nhiều hoạt động lồng ghép, như: hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí…
b/ Hoạt động của NHCS XH gắn liền với cấp ủy và chính quyền các địa phương nên góp phần đảm bảo hiệu quả các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước tới tất cả mọi người dân ở địa phương
NHCSXH thực hiện tổ chức giao dịch tại 10.974 Điểm giao dịch đặt tại trụ sở UBND cấp xã, phường, thị trấn với sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ với chính quyền địa phương trong đảm bảo chính sách tín dụng xã hội. Ban đại diện HĐQT tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước và các ban ngành, đoàn thể, trong đó Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cùng cấp làm Trưởng ban. Nhằm tăng cường năng lực quản trị hoạt động tín dụng chính sách tại cơ sở, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương bổ sung Chủ tịch UBND cấp xã tham gia thành viên Ban đại diện HĐQT cấp huyện. Trưởng ban đại diện HĐQT NHCS XH ở địa phương, với chức trách, nhiệm vụ quyền hạn rất rõ ràng. Màng lưới giao dịch mở rộng đến tất cả các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc, thuận tiện cho giao dịch của các đối tượng chính sách xã hội là các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc, hộ vùng sâu, vùng xa,…
c/ Các chương trình tín dụng chính sách xã hội của nhà nước không ngừng được mở rộng, quy mô nguồn vốn, dư nợ tăng và hiệu quả tín dụng chính sách ngày càng rõ rệt cho tất cả các đối tượng cần mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính toàn diện
Đến hết năm 2017, tổng dư nợ của NHCSXH đạt khoảng 172.000 tỷ đồng, tăng gần 15.000 tỷ đồng so với cuối năm 2016, với trên 6,7 triệu hộ đang có dư nợ. NHCSXH dành 80% số dư nợ tăng trong năm qua cho chương trình hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

Nguồn vốn tín dụng chính sách trong những năm qua đã được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước; trong đó, tập trung ưu tiên cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới… Đặc biệt đối với các địa phương bị thiệt hại do thiên tai. Ngoài việc động viên, thăm hỏi kịp thời và chỉ đạo nắm chắc thiệt hại để xử lý nợ bị rủi ro theo quy trình, NHCS XH Việt Nam cũng đã kịp thời bổ sung thêm vốn khôi phục sản xuất. Chỉ tính riêng năm 2017, đối với các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ vừa qua, NHCSXH đã bổ sung gần 300 tỷ đồng để hỗ trợ kịp thời hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn khôi phục sản xuất, đồng thời đã xử lý rủi ro hơn 10.980 món vay, với số tiền trên 234 tỷ đồng của hộ vay vốn bị thiệt hại.
Để đảm bảo có đủ nguồn vốn thực hiện các chương trình tín dụng chính sách, NHCSXH đã thực hiện nhiều giải pháp về công tác nguồn vốn. Thứ nhất, NHCSXH thực hiện tốt công tác phát hành trái phiếu theo chỉ tiêu kế hoạch Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thứ hai, NHCSXH nhận tiền gửi 2% của các TCTD Nhà nước. Thứ ba, NHCSXH tăng cường huy động tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân tại trụ sở NHCSXH cũng như huy động tiền gửi tiết kiệm tại Điểm giao dịch xã.
Bên cạnh đó, NHCSXH đã tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, các chủ đầu tư trong và ngoài nước chuyển vốn ủy thác sang NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác… Đặc biệt, NHCSXH đã tích cực thu hồi tốt nợ đến hạn của các chương trình để thực hiện cho vay quay vòng, với số tiền trên 45.000 tỷ đồng.
Từ 03 chương trình tín dụng nhận bàn giao ban đầu vào năm 2003, đến nay NHCSXH đang triển khai thực hiện hơn 20 chương trình tín dụng ưu đãi cùng nhiều chương trình từ nguồn vốn ủy thác của nước ngoài với tổng dư nợ đạt khoảng 170.00 tỷ đồng như nói trên, gấp hơn 24 lần so với thời điểm thành lập; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 19,2%. Dư nợ cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a của Chính phủ là 13.944 tỷ đồng, với gần 457 nghìn đối tượng đang dư nợ. Chất lượng tín dụng không ngừng được củng cố và nâng cao, đến nay nợ quá hạn và nợ khoanh giảm từ 13,75% tại thời điểm nhận bàn giao, đến hết năm 2017, nợ quá hạn chỉ chiếm khoảng 0,41% tổng dư nợ, thấp nhất trong toàn hệ thống các tổ chức tín dụng hiện nay. Quy trình cho vay và đối tượng cho vay được thực hiện nghiêm túc. Tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động đạt chất lượng tốt và khá ở tỷ lệ trên 96%, chỉ còn 1,62% tổ đạt chất lượng kém. Công tác phối kết hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương được củng cố. Đặc biệt, việc sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác được nâng cao.
Vốn tín dụng chính sách xã hội không chỉ giúp người dân phát triển trồng trọt, chăn nuôi theo cơ chế thị trường, tính toán hiệu quả, tính đến nhu cầu thị trường tiêu thụ, mà còn giúp họ tham gia các dự án trồng rừng, phát triển thủy sản, đi xuất khẩu lao động, xây dựng các công trình vệ sinh nước sạch môi trường, xây dựng hệ thống thoát nước đảm bảo vệ sinh, xây dựng hệ thống điện ở nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hộ gia đình.
Nguồn vốn tín dụng chính sách trong hơn 15 năm qua đã được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước; trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới… qua đó giúp hơn 31,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn từ NHCSXH với doanh số cho vay đạt trên 433.000 tỷ đồng; góp phần giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho gần 3,4 triệu lao động, hơn 3,5 triệu lượt HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng trên 9,9 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; gần 105.000 căn nhà cho hộ gia đình vượt lũ vùng ĐBSCL, gần 528.000 căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách, trên 11.000 căn nhà phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung; trên 112.000 lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài…
d/ Mở rộng và nâng cao hiệu quả các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước do Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam thực hiện góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn
Một là, hiệu quả rõ rệt của chính sách tín dụng nhà nước qua NHCSXH đó là thúc đẩy hộ gia đình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa, biết tính toán đồng vốn, tính toán loại cây trồng và vật nuôi để đầu tư, đảm bảo thu hồi được vốn, nâng cao thu nhập; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sang trồng các loại cây, nuôi các loại con có năng suất cao và chất lượng đáp ứng được yêu cầu của thị trường; chuyển dịch sang làm dịch vụ chế biến, vận tải, gia công hàng hóa,… tạo việc làm tại chổ, cải thiên thu nhập,…
Hai là, hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội dần dần tạo được lòng tin đối với một số tổ chức quốc tế, thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Một số nước đang nghiên cứu tìm hiểu tham khảo mô hình của NHCS XH của Việt Nam cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và thực hiện các vấn đề an sinh xã hội.
Ba là, Ngân hàng chính sách xã hội góp phần tích cực vào đổi mới hoạt động ngân hàng, cũng như thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động tín dụng của các NHTM cũng như các dịch vụ phi tín dụng của NHTM; góp phần thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển, đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi; góp phần nâng cao nhận thức, khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức của người nghèo, hộ gia đình ở vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới, cải thiện đời sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là dân cư tại các vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới và đồng bào dân tộc thiểu số.
Vốn tín dụng chính sách đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001-2005 từ 17% xuống 7%; giai đoạn 2005 - 2010 từ 22% xuống 9,45%; giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25% cuối năm 2015. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP giảm từ 43,89% năm 2012 xuống 38,2% năm 2013,… (Tỷ lệ hộ nghèo… năm 2006 tăng lên gần 10% đã theo tiêu chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 thay đổi so với tiêu chuẩn giai đoạn 2011 - 2015).
Bốn là, chất lượng tín dụng chính sách được đảm bảo, hiện nay tỷ lệ nợ xấu của NHCS XH thấp nhất trong toàn ngành ngân hàng. Với bộ máy gọn nhẹ chi phí thấp, tạo được lòng tin đối với nhân dân, đối với các hộ gia đình chính sách. Điều này bước đầu khẳng định tính an toàn, uy tín trong hoạt động của NHCS XH Việt Nam.
Năm là, xã hội hóa hoạt động tín dụng chính sách của nhà nước, tính minh bạch trong hoạt động NHCS XH ngày càng cố, đảm bảo. Bên cạnh sự tham gia của các tổ tiết kiệm vay vốn, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, vai trò trách nhiệm của Ban đại diện HĐQT NHCS XH ở địa phương, thì điểm giao dịch của NHCS XH được đặt định kỳ trong tháng tại trụ sở UBND xã phường, với tất cả các quy định về lãi suất, thủ tục vay, giải ngân, dư nợ, trả lãi,… được thông báo công khai ngay tại nơi giao dịch.
Sáu là, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể, đem lại quyền lợi thiết thực cho hội viên. Thông qua hoạt động đoàn thể các hội viên trao đổi kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, kinh nghiệp sử dụng vốn vay. Đồng thời các tổ chức đoan thể cũng thực hiện các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư,…góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hộ nghèo và cận nghèo.
đ/ NHCSXH đã thực hiện phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù
Để chuyển tải vốn tín dụng chính sách đúng đối tượng thụ hưởng, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ tối đa cho người nghèo trong điều kiện tiết giảm chi phí quản lý, chi phí xã hội,... NHCSXH đã thực hiện phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù thông qua hình thức: (i) Phân công, phân cấp trách nhiệm trong việc xác định hộ nghèo và các đối tượng chính sách đủ điều kiện vay vốn; (ii) Thực hiện dân chủ, công khai trong cộng đồng dân cư; (iii) Kết hợp sự tham gia của 04 tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác, với vai trò giám sát xã hội và làm uỷ thác một số nội dung công việc trong quy trình nghiệp vụ tín dụng chính sách.
Khuyến nghị giải pháp
Một là, cần có cơ chế tạo lập nguồn vốn một cách lâu dài, đáp ứng những thách thức nói trên về nhu cầu vốn tín dụng ưu đãi của các đối tượng chính sách.
Hiện nay nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp chiếm tỉ trọng chưa cao. Việc tiếp cận được các nguồn vốn nhân đạo, vốn ODA, các nguồn vốn vay có thời hạn dài, lãi suất thấp còn rất hạn chế. Ngoài việc Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ thì cần nâng tỷ lệ vốn thực hiện Chương trình tín dụng chính sách khai thác được các nguồn vốn có tính chất ổn định và lâu dài, lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi, như: tăng quy mô kế hoạch phát hành Trái phiếu hàng năm được Chính phủ bảo lãnh, mở rộng nguồn vốn vay có thời hạn dài và lãi suất thấp, nguồn vốn vay tồn ngân của Kho bạc Nhà nước…
NHCS XH chủ động tiếp xúc, xây dựng các chương trình dự án để thu hút nguồn vốn tài trợ lớn (như PRSC, WB, ADB, IFAD…) nhằm tiếp cận và tham gia các dự án hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại nhằm tăng cường năng lực đào tạo, mua sắm trang thiết bị và các dự án vay vốn ODA.
Nguồn tiền gửi của Bảo hiểm xã hội, SCIC, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam,... cần nghiên cứu, cân đối một tỷ lệ nào đó đưa qua NHCSXH. Bên cạnh đó cần nghiên cứu nâng tỷ lệ vốn huy động của tất cả các NHTM chuyển sang NHCS XH chứ không dừng lại ở phạm vi là TCTD Nhà nước như hiện nay.
Tập trung các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn: như: dạy nghề ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới, các chương trình tài trợ khác của doanh nghiệp, nguồn vốn an sinh xã hội khác có tính chất đầu tư của Ngân sách nhà nước,... chuyển qua NHCS XH để cho vay.
Hai là, tập trung, phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai Quyết định số 852/QĐ-TTg, ngày 10/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2011-2020.
Ba là, thể chế hoá và cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm pháp lý của các bộ phận hợp thành phương thức quản lý kênh tín dụng chính sách xã hội là HĐQT và Ban Đại diện HĐQT, các tổ chức nhận uỷ thác, Tổ TK&VV, đặc biệt là chính quyền cấp xã, người được giao nhiệm vụ điều tra, phân loại hộ nghèo, hộ được thụ hưởng chính sách xã hội khác và trực tiếp quản lý danh sách phân loại đó.
Bốn là, nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; tiếp tục đổi mới hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ gia đình nghèo và cận nghèo,...
Năm là, có cơ chế xử lý rủi ro tín dụng chính sách cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình chính sách ở những vùng bị thiên tai bởi xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,... góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - nông thôn bền vững.
Sáu là, cần đa dạng dịch vụ hoạt động của NHCS XH, như: dịch dịch thanh toán, dịch vụ thẻ, chi trả kiều hối,... phục vụ các đối tượng khách hàng thường xuyên của mình.
Giải quyết tốt các vấn đề nói trên cũng là góp phần phát huy hơn nữa vai trò của NHCS XH Việt Nam trong mở rộng và thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng XII, nâng tầm ảnh hưởng và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế về giảm nghèo bền vững, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Các bài tham luận hội thảo về phát triển bền vững NHCS XH
- www. vbsp.org.vn
- Một số báo cáo của NHCS XH
- http://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-368870.html
- http://nhandan.com.vn
- http://vbsp.org.vn/nam-cua-nhung-dau-an-noi-bat.html
- Nguồn khác

(Tạp chí Ngân hàng số 3+4, tháng 2/2018)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc