
Triển vọng thị trường vốn tại Việt Nam
1. Vài nét về thực trạng thị trường vốn hiện nay
Trong thời gian vừa qua, thị trường vốn Việt Nam có sự phát triển nhanh về quy mô và tính thanh khoản, huy động được nguồn lực tài chính lớn cho Chính phủ, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Thị trường vốn có tốc độ tăng trưởng tích cực, quy mô thị trường có xu hướng tăng, khuôn khổ pháp lí liên tục được cải thiện góp phần duy trì nguồn vốn cung ứng quan trọng cho nền kinh tế. Tính đến tháng 6/2023, quy mô thị trường vốn tương đương 166% GDP cả năm 2022. Để thúc đẩy thị trường vốn phát triển nhanh chóng, lành mạnh, góp phần đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính, khuôn khổ pháp lí thị trường vốn liên tục được hoàn thiện theo hướng tăng cường các biện pháp tái cơ cấu, nâng cao tính minh bạch, kỉ luật của thị trường… như việc ban hành Luật Chứng khoán (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế…
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, tăng cường sự quản lí hiệu quả của các cơ quan nhà nước cũng như nâng cao tính minh bạch của thị trường, tháng 7/2023, hệ thống giao dịch trái phiếu riêng lẻ tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã chính thức được khai trương và đi vào vận hành. Việc ra đời của hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ là hết sức cần thiết, góp phần tạo ra một nền tài chính đa dạng, hỗ trợ doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn để phát triển đất nước nhằm giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào kênh tín dụng ngân hàng. Trong 9 tháng đầu năm 2023, thị trường chứng khoán phục hồi tích cực, góp phần chia sẻ vai trò cung ứng kênh vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, giảm thiểu sự phụ thuộc vốn vào hệ thống ngân hàng. Vốn hóa thị trường chứng khoán tăng, thanh khoản và khối lượng giao dịch đều tăng so với thời điểm cuối năm 2022. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp mặc dù có những khó khăn nhất định, song tổng khối lượng trái phiếu Chính phủ huy động đến hết ngày 27/9/2023 là 249.881 tỉ đồng. Theo thống kê sơ bộ của FiinGroup, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang có tín hiệu sôi động trở lại khi giá trị phát hành sơ cấp đạt 139 nghìn tỉ đồng từ đầu năm 2023 đến ngày 08/9/2023.
Thị trường vốn của Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng cũng như dư địa phát triển
để thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư (Ảnh minh hoạ, nguồn internet)
Mặc dù thị trường vốn tiếp tục duy trì tín hiệu tích cực, song vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Cụ thể như các loại sản phẩm và hàng hóa trên thị trường vốn còn thiếu tính đa dạng, nhà đầu tư ít có sự lựa chọn; thông tin thiếu minh bạch, có trường hợp doanh nghiệp sử dụng sai mục đích (không gắn với tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp), hiện tượng thao túng giá cổ phiếu, các vi phạm về gian lận hồ sơ, công bố thông tin không chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp… Bên cạnh đó, trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp xuất hiện tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích theo phương án phát hành, nhiều nhà đầu tư cá nhân chưa hiểu biết rõ về pháp luật trong đầu tư và giao dịch trái phiếu.
2. Triển vọng thị trường vốn thời gian tới
2.1. Triển vọng tích cực
Thứ nhất, với môi trường chính trị - kinh tế ổn định là điều kiện rất thuận lợi để Việt Nam thu hút dòng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối ổn định; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp so với các nước trên thế giới và khu vực (tính chung 9 tháng năm 2023, lạm phát bình quân ở mức 3,16% so với cùng kỳ năm trước). Theo đánh giá của nhiều chuyên gia và tổ chức, thị trường vốn của Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng cũng như dư địa phát triển để thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư quốc tế.
Thứ hai, Chính phủ đã và đang nỗ lực thực hiện rất nhiều giải pháp để hỗ trợ và phát triển thị trường vốn. Thị trường vốn có vai trò ngày càng quan trọng và là kênh dẫn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục rà soát, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động các thị trường tài chính, chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu; quản lý chặt chẽ các tổ chức tham gia thị trường; bảo đảm tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống. Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán để thực sự trở thành một kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế”.
Tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 xác định “Phát triển mạnh các loại thị trường. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP... Cơ cấu lại và phát triển thị trường chứng khoán; mở rộng năng lực thị trường vốn; nâng cao tính công khai, minh bạch và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thúc đẩy phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý, giám sát rủi ro hệ thống.”
Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 xác định các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu bao gồm: “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán”.
Trước bối cảnh đó, để xây dựng thị trường vốn ngày càng minh bạch, hiệu quả theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; tăng cường lòng tin của các chủ thể tham gia thị trường, của công chúng đầu tư trong và ngoài nước, trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành triển khai nhiều chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cải cách thể chế, tăng cường năng lực thu hút đầu tư và phát triển thị trường tài chính để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, với sự nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng giá rẻ. Trong 9 tháng đầu năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5 - 2,0%/năm1, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, thể hiện sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, thị trường chứng khoán tăng trưởng phục hồi tích cực trong 9 tháng đầu năm 2023 sẽ góp phần củng cố niềm tin và kì vọng của các nhà đầu tư vào thị trường.
2.2. Khó khăn, thách thức
Trong ngắn hạn, thị trường vốn Việt Nam tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định. Do sự ảnh hưởng tiêu cực từ khó khăn chung của kinh tế thế giới cũng như khó khăn từ kinh tế trong nước và các yếu tố nội tại đến từ bản thân của các doanh nghiệp khiến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp không có nhiều khả quan, lợi nhuận có xu hướng sụt giảm so với năm 2022. Lực lượng lao động Quý III/2023 có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động, việc làm tăng chậm do tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức chủ yếu do đơn hàng sản xuất của các doanh nghiệp thấp. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 14,6% về vốn đăng kí và giảm 1,2% về số lao động so với cùng kì năm 2022. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 75,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 21,2% so với cùng kì năm 2022; 46,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 26,9%; 13,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,3% so với cùng kì năm 2023. Bình quân một tháng có 15 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Trong năm 2023, lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn tương đối lớn tạo áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn như hiện nay.
Như vậy, có thể thấy, thị trường vốn của Việt Nam chịu tác động đan xen bởi cả các yếu tố thuận lợi và khó khăn. Về thuận lợi, dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2023 tiếp tục ở mức cao so với các nước trong khu vực, từ khoảng 4,4% đến 5,8%, mặc dù thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 6,5%. Nhưng có thể nói đây là mức tăng tương đối khả quan trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đều có xu hướng chậm lại. Bên cạnh đó, như đề cập ở trên, với việc liên tục giảm lãi suất của NHNN để chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế sẽ là yếu tố hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận chi phí vốn giá rẻ. Chính phủ tiếp tục quyết liệt triển khai các biện pháp để đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Các chính sách linh hoạt kịp thời được ban hành nhằm củng cố khuôn khổ pháp lí, bình ổn thị trường vốn, nhất là thị trường trái phiếu nhằm phát triển trị trường minh bạch và lành mạnh hơn.
Về khó khăn, kinh tế thế giới phục hồi chậm tác động không thuận lợi lên kinh tế trong nước. Một số ngân hàng ở một số nước phá sản ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính ngân hàng toàn cầu. Trong nước, tình trạng phát triển thiếu cân bằng giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn vẫn chưa được xử lí, gây sức ép không nhỏ lên công tác điều hành chính sách tiền tệ. Các doanh nghiệp gặp khó khăn nhiều trong thị trường đầu ra, phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh buộc phải thu hẹp quy mô, cắt giảm lao động, có nguy cơ phá sản. Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt những doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu có nguy cơ bị chậm lại trong bối cảnh cầu nước ngoài sụt giảm đặc biệt là các đối tác thương mại toàn cầu lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc,…
3. Kiến nghị, đề xuất
Với bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động như hiện nay, việc theo dõi sát các diễn biến trên thị trường quốc tế để có phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả là điều rất quan trọng nhằm dự báo chính xác, hạn chế các tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và doanh nghiệp trong nước.
Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cấp bách để tháo gỡ khó khăn, bất cập của thị trường vốn hiện nay. Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, việc nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp phát hành trái phiếu là một trong những giải pháp cần phải triển khai quyết liệt để tăng cường, củng cố niềm tin của nhà đầu tư, nâng cao vị thế của thị trường, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Đối với việc trả nợ của các tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cần có biện pháp giám sát, quản lí chặt chẽ việc trả nợ để ngăn chặn hành vi trục lợi, né tránh trách nhiệm, đồng thời củng cố niềm tin của thị trường.
Đối với thị trường chứng khoán, cần xây dựng lộ trình nâng hạng thị trường chứng khoán lên thị trường mới nổi, đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường để đáp ứng nhu cầu đầu tư khác nhau.
Chính phủ tiếp tục kiên định mục tiêu tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi song song với cải cách thủ tục hành chính để thu hút nguồn vốn đầu tư, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
Thực hiện các giải pháp để phát triển thị trường vốn trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, giảm lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu công khai, minh bạch để nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận và kết nối.
1 (i) Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm từ 7%/năm xuống 5%/năm; (ii) Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND kì hạn dưới 06 tháng, tiền gửi không kì hạn và kì hạn dưới 01 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,5%/năm, tiền gửi kì hạn từ 01 đến dưới 06 tháng giảm từ 6%/năm xuống 4,75%/năm; (iii) Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5,5%/năm xuống 4%/năm.
ThS. Nguyễn Thị Thúy Linh
Tin bài khác


Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Vươn mình trong hội nhập quốc tế
