Triển vọng thị trường vốn tại Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Trong thời gian vừa qua, thị trường vốn Việt Nam có sự phát triển nhanh về quy mô và tính thanh khoản, huy động được nguồn lực tài chính lớn cho Chính phủ, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Thị trường vốn có tốc độ tăng trưởng tích cực, quy mô thị trường có xu hướng tăng, khuôn khổ pháp lí liên tục được cải thiện góp phần duy trì nguồn vốn cung ứng quan trọng cho nền kinh tế.
aa

1. Vài nét về thực trạng thị trường vốn hiện nay

Trong thời gian vừa qua, thị trường vốn Việt Nam có sự phát triển nhanh về quy mô và tính thanh khoản, huy động được nguồn lực tài chính lớn cho Chính phủ, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Thị trường vốn có tốc độ tăng trưởng tích cực, quy mô thị trường có xu hướng tăng, khuôn khổ pháp lí liên tục được cải thiện góp phần duy trì nguồn vốn cung ứng quan trọng cho nền kinh tế. Tính đến tháng 6/2023, quy mô thị trường vốn tương đương 166% GDP cả năm 2022. Để thúc đẩy thị trường vốn phát triển nhanh chóng, lành mạnh, góp phần đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính, khuôn khổ pháp lí thị trường vốn liên tục được hoàn thiện theo hướng tăng cường các biện pháp tái cơ cấu, nâng cao tính minh bạch, kỉ luật của thị trường… như việc ban hành Luật Chứng khoán (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế…

Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, tăng cường sự quản lí hiệu quả của các cơ quan nhà nước cũng như nâng cao tính minh bạch của thị trường, tháng 7/2023, hệ thống giao dịch trái phiếu riêng lẻ tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã chính thức được khai trương và đi vào vận hành. Việc ra đời của hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ là hết sức cần thiết, góp phần tạo ra một nền tài chính đa dạng, hỗ trợ doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn để phát triển đất nước nhằm giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào kênh tín dụng ngân hàng. Trong 9 tháng đầu năm 2023, thị trường chứng khoán phục hồi tích cực, góp phần chia sẻ vai trò cung ứng kênh vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, giảm thiểu sự phụ thuộc vốn vào hệ thống ngân hàng. Vốn hóa thị trường chứng khoán tăng, thanh khoản và khối lượng giao dịch đều tăng so với thời điểm cuối năm 2022. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp mặc dù có những khó khăn nhất định, song tổng khối lượng trái phiếu Chính phủ huy động đến hết ngày 27/9/2023 là 249.881 tỉ đồng. Theo thống kê sơ bộ của FiinGroup, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang có tín hiệu sôi động trở lại khi giá trị phát hành sơ cấp đạt 139 nghìn tỉ đồng từ đầu năm 2023 đến ngày 08/9/2023.


Thị trường vốn của Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng cũng như dư địa phát triển
để thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư (Ảnh minh hoạ, nguồn internet)

Mặc dù thị trường vốn tiếp tục duy trì tín hiệu tích cực, song vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Cụ thể như các loại sản phẩm và hàng hóa trên thị trường vốn còn thiếu tính đa dạng, nhà đầu tư ít có sự lựa chọn; thông tin thiếu minh bạch, có trường hợp doanh nghiệp sử dụng sai mục đích (không gắn với tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp), hiện tượng thao túng giá cổ phiếu, các vi phạm về gian lận hồ sơ, công bố thông tin không chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp… Bên cạnh đó, trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp xuất hiện tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích theo phương án phát hành, nhiều nhà đầu tư cá nhân chưa hiểu biết rõ về pháp luật trong đầu tư và giao dịch trái phiếu.

2. Triển vọng thị trường vốn thời gian tới

2.1. Triển vọng tích cực

Thứ nhất, với môi trường chính trị - kinh tế ổn định là điều kiện rất thuận lợi để Việt Nam thu hút dòng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối ổn định; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp so với các nước trên thế giới và khu vực (tính chung 9 tháng năm 2023, lạm phát bình quân ở mức 3,16% so với cùng kỳ năm trước). Theo đánh giá của nhiều chuyên gia và tổ chức, thị trường vốn của Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng cũng như dư địa phát triển để thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư quốc tế.

Thứ hai, Chính phủ đã và đang nỗ lực thực hiện rất nhiều giải pháp để hỗ trợ và phát triển thị trường vốn. Thị trường vốn có vai trò ngày càng quan trọng và là kênh dẫn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục rà soát, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động các thị trường tài chính, chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu; quản lý chặt chẽ các tổ chức tham gia thị trường; bảo đảm tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống. Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán để thực sự trở thành một kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế”.

Tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 xác định “Phát triển mạnh các loại thị trường. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP... Cơ cấu lại và phát triển thị trường chứng khoán; mở rộng năng lực thị trường vốn; nâng cao tính công khai, minh bạch và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thúc đẩy phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý, giám sát rủi ro hệ thống.”

Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 xác định các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu bao gồm: “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán”.

Trước bối cảnh đó, để xây dựng thị trường vốn ngày càng minh bạch, hiệu quả theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; tăng cường lòng tin của các chủ thể tham gia thị trường, của công chúng đầu tư trong và ngoài nước, trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành triển khai nhiều chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cải cách thể chế, tăng cường năng lực thu hút đầu tư và phát triển thị trường tài chính để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ ba, với sự nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng giá rẻ. Trong 9 tháng đầu năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5 - 2,0%/năm1, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, thể hiện sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư, thị trường chứng khoán tăng trưởng phục hồi tích cực trong 9 tháng đầu năm 2023 sẽ góp phần củng cố niềm tin và kì vọng của các nhà đầu tư vào thị trường.

2.2. Khó khăn, thách thức

Trong ngắn hạn, thị trường vốn Việt Nam tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức nhất định. Do sự ảnh hưởng tiêu cực từ khó khăn chung của kinh tế thế giới cũng như khó khăn từ kinh tế trong nước và các yếu tố nội tại đến từ bản thân của các doanh nghiệp khiến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp không có nhiều khả quan, lợi nhuận có xu hướng sụt giảm so với năm 2022. Lực lượng lao động Quý III/2023 có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động, việc làm tăng chậm do tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức chủ yếu do đơn hàng sản xuất của các doanh nghiệp thấp. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 14,6% về vốn đăng kí và giảm 1,2% về số lao động so với cùng kì năm 2022. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 75,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 21,2% so với cùng kì năm 2022; 46,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 26,9%; 13,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,3% so với cùng kì năm 2023. Bình quân một tháng có 15 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Trong năm 2023, lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn tương đối lớn tạo áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn như hiện nay.

Như vậy, có thể thấy, thị trường vốn của Việt Nam chịu tác động đan xen bởi cả các yếu tố thuận lợi và khó khăn. Về thuận lợi, dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2023 tiếp tục ở mức cao so với các nước trong khu vực, từ khoảng 4,4% đến 5,8%, mặc dù thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 6,5%. Nhưng có thể nói đây là mức tăng tương đối khả quan trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đều có xu hướng chậm lại. Bên cạnh đó, như đề cập ở trên, với việc liên tục giảm lãi suất của NHNN để chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế sẽ là yếu tố hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận chi phí vốn giá rẻ. Chính phủ tiếp tục quyết liệt triển khai các biện pháp để đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Các chính sách linh hoạt kịp thời được ban hành nhằm củng cố khuôn khổ pháp lí, bình ổn thị trường vốn, nhất là thị trường trái phiếu nhằm phát triển trị trường minh bạch và lành mạnh hơn.

Về khó khăn, kinh tế thế giới phục hồi chậm tác động không thuận lợi lên kinh tế trong nước. Một số ngân hàng ở một số nước phá sản ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính ngân hàng toàn cầu. Trong nước, tình trạng phát triển thiếu cân bằng giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn vẫn chưa được xử lí, gây sức ép không nhỏ lên công tác điều hành chính sách tiền tệ. Các doanh nghiệp gặp khó khăn nhiều trong thị trường đầu ra, phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh buộc phải thu hẹp quy mô, cắt giảm lao động, có nguy cơ phá sản. Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt những doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu có nguy cơ bị chậm lại trong bối cảnh cầu nước ngoài sụt giảm đặc biệt là các đối tác thương mại toàn cầu lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc,…

3. Kiến nghị, đề xuất

Với bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động như hiện nay, việc theo dõi sát các diễn biến trên thị trường quốc tế để có phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả là điều rất quan trọng nhằm dự báo chính xác, hạn chế các tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và doanh nghiệp trong nước.

Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cấp bách để tháo gỡ khó khăn, bất cập của thị trường vốn hiện nay. Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, việc nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp phát hành trái phiếu là một trong những giải pháp cần phải triển khai quyết liệt để tăng cường, củng cố niềm tin của nhà đầu tư, nâng cao vị thế của thị trường, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Đối với việc trả nợ của các tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cần có biện pháp giám sát, quản lí chặt chẽ việc trả nợ để ngăn chặn hành vi trục lợi, né tránh trách nhiệm, đồng thời củng cố niềm tin của thị trường.

Đối với thị trường chứng khoán, cần xây dựng lộ trình nâng hạng thị trường chứng khoán lên thị trường mới nổi, đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường để đáp ứng nhu cầu đầu tư khác nhau.

Chính phủ tiếp tục kiên định mục tiêu tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi song song với cải cách thủ tục hành chính để thu hút nguồn vốn đầu tư, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.

Thực hiện các giải pháp để phát triển thị trường vốn trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, giảm lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu công khai, minh bạch để nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận và kết nối.

1 (i) Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm từ 7%/năm xuống 5%/năm; (ii) Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND kì hạn dưới 06 tháng, tiền gửi không kì hạn và kì hạn dưới 01 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,5%/năm, tiền gửi kì hạn từ 01 đến dưới 06 tháng giảm từ 6%/năm xuống 4,75%/năm; (iii) Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5,5%/năm xuống 4%/năm.


ThS. Nguyễn Thị Thúy Linh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng