Tín dụng chính sách vùng Tây Nam Bộ đến với hộ nghèo, hộ cận nghèo

Hoạt động ngân hàng
Duy Nhi Tính nhân văn, thiết thực, hiệu quả, sức lan tỏa mạnh mẽ của tín dụng chính sách là một “điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam mà đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đánh gi...
aa

Duy Nhi

Tính nhân văn, thiết thực, hiệu quả, sức lan tỏa mạnh mẽ của tín dụng chính sách là một “điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam mà đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đánh giá. Và từ đây, nhiều cách làm hay, nhiều sáng kiến được đưa ra, lôi cuốn tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở tham gia sâu sát, mang lại hiệu quả thiết thực cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Bước đột phá giảm nghèo
Từ những bước đi ban đầu, NHCSXH đã vươn lên với những thành tựu đáng ghi nhận. Theo Phó Tổng Giám đốc Võ Minh Hiệp, trong 15 năm qua đã có trên 30 triệu lượt người nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn từ NHCSXH với tổng doanh số cho vay trên 410.000 tỷ đồng, góp phần giúp cho 4,5 triệu hộ vượt ngưỡng nghèo và tạo việc làm cho gần 3,4 triệu lao động, trong đó trên 110.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp trên 3,5 triệu HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; gần 105 nghìn nhà vượt lũ cho bà con ở vùng ĐBSCL… Đóng góp này thực sự là bước đột phá giảm nghèo.


Thông qua mạng lưới Ðiểm giao dịch của NHCSXH tại xã, phường, NHCSXH đã và đang tích cực đưa nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ trực tiếp đến với người dân cả nước nói chung, vùng Tây Nam bộ nói riêng

Tại vùng Tây Nam bộ, chất lượng tín dụng trong những năm trước tạm gọi là “Vùng trũng”. Nhưng sau một thời gian triển khai, chất lượng tín dụng đã được nâng lên. 12/13 tỉnh, thành phố xây dựng Đề án củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng trong 5 năm qua, đến nay chỉ còn 2 tỉnh còn khó khăn, 10 tỉnh đã hòa nhập bình quân chung cả nước. NHCSXH tập trung vào 8 chương trình trọng điểm: Tỷ trọng cho vay hộ nghèo ở Tây Nam bộ là 17% so với tổng dư nợ khu vực; cho vay HSSV chiếm tỷ trọng 15,7%; cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn chiếm 17%; cho vay hộ thoát nghèo 13% và cho vay giải quyết việc làm là 4,2%,…
Đóng góp đột phá đến từ cách làm đột phá với sự tham gia của hệ thống chính quyền cơ sở và từ sự vận hành chính sách. Ở tỉnh Đồng Tháp, hay thành phố Cần Thơ đã có bước đi “xé rào” tăng nguồn vốn mà ngay từ đầu chưa được sự ủng hộ của các ngành, các cấp liên quan. Theo Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp Phạm Văn Hòa, hằng năm địa phương trích một phần ngân sách địa phương khoảng 20 tỷ đồng chuyển sang NHCSXH để cho vay đối tượng trên địa bàn. “Tại Cần Thơ hiện nay là 120 tỷ đồng. Đây là một sự phấn đấu rất lớn”, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Cần Thơ Nguyễn Thanh Xuân cho hay.
Không bằng lòng với kết quả ban đầu
Dù có đánh giá tích cực đến đâu về tín dụng chính sách xã hội, các ĐBQH đều cho rằng, giảm nghèo không thể bằng lòng với thành tựu 15 năm qua. Người nghèo, đối tượng cận nghèo còn diện rộng. Chúng ta cũng cần nhìn nhận mức thu nhập, đời sống người dân so với các nước xung quanh còn thấp.
“Vùng Tây Nam bộ có thế mạnh rất rõ về sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản… Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có rất nhiều khó khăn do địa hình bị chia cắt bởi kênh rạch và thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán và xâm ngập mặn. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn còn rất cao. Giai đoạn 2016 - 2020 còn khoảng 15% hộ nghèo, diện tái nghèo cũng còn thách thức, nguy cơ tái nghèo khá lớn”, Phó Tổng Giám đốc Võ Minh Hiệp cho hay.
Phó Tổng Giám đốc Võ Minh Hiệp nhấn mạnh, chúng ta vẫn cần chương trình cho vay hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo để sao giải quyết căn cơ, khép kín một đường đi, ta sẽ giảm thiểu tỷ lệ tái nghèo mà trước đây là “cứ 3 ra 1 vào”.
Chính sách hợp lòng dân, nhưng nguồn lực lại hạn chế
Việc Chính phủ thành lập NHCSXH như một công cụ kinh tế thực hiện vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đối với các đối tượng dễ bị tổn thương và là đòn bẩy kinh tế kích thích người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác có điều kiện phát triển sản xuất, tự vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, NHCSXH cũng đang đứng trước những thách thức về việc vốn điều lệ. Việc bố trí vốn đầu tư công, trung hạn giai đoạn 2016 - 2020; cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự phù hợp… Tại sao ý nghĩa xã hội rất rõ ràng, hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực mà lại khó khăn về nguồn vốn
cho vay?


Tín dụng chính sách đã và đang “tiếp sức” cho người nghèo tỉnh Ðồng Tháp phát triển,
mở rộng diện tích trồng xoài Cát Chu - cây đặc sản của địa phương

Theo Phó Tổng Giám đốc Võ Minh Hiệp, một điểm đáng chú ý là NHCSXH cho vay chủ yếu trung, dài hạn nhưng huy động nguồn vốn thì ngắn hạn. Đây là một bài toán khó khi cân đối nguồn vốn. “Với thế mạnh có mạng lưới tận cơ sở, tuyến xã, nên chúng tôi đã chuyển sang huy động nguồn vốn ở nông thôn tại Điểm giao dịch xã, tập trung để huy động vốn ổn định hơn, tận dụng mạng lưới ở tuyến xã. Tuy nhiên, để thay đổi được cơ cấu nguồn vốn, kể cả phát hành trái phiếu Chính phủ thì không phải lúc nào cũng thuận lợi vì còn liên quan đến nợ công…”, Phó Tổng Giám đốc Võ Minh Hiệp chia sẻ.
“Chúng ta có nhiều cách để tăng cường nguồn vốn”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội Nguyễn Hữu Quang cho hay. Hiện nay, cơ cấu vốn của NHCSXH là 82% vẫn phụ thuộc vào các chính sách của Nhà nước. Nguồn vốn tự huy động chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn. Với kết quả tích cực như vậy, nợ quá hạn thấp, có thể nghĩ đến giải pháp huy động từ các nguồn lực khác tăng
lên 18%.
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sĩ Lợi, để tăng nguồn vốn cũng như hiệu quả tín dụng chính sách cần 5 giải pháp cơ bản. Thứ nhất, phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của các cơ quan dân cử bao gồm cả ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp đối với tín dụng chính sách. Thứ hai, đề nghị Chính phủ bổ sung vốn điều lệ cho NHCSXH vì đây là một kênh để thực hiện tốt quá trình giảm nghèo, là yếu tố để tác động tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, cho phép huy động vốn vay để tăng nguồn vốn cho vay của NHCSXH; linh hoạt lãi suất cho từng vùng miền khác nhau… Thứ tư, tập trung hơn cho vay vùng lõi nghèo nằm trong 64 huyện nghèo. Thứ năm, phải tổng kết đánh giá toàn diện tín dụng chính sách cho vay để giảm nghèo trong giai đoạn vừa qua. Mục tiêu của chúng ta là điều chỉnh chính sách cho phù hợp với chuẩn nghèo đa chiều.

Hiệu quả lan tỏa của vốn tín dụng NHCSXH thể hiện ở 5 điểm:
Đầu tiên, thực hiện được mục tiêu giảm nghèo bền vững và đặc biệt là giảm nghèo cùng cực, giảm nghèo đồng đều trong cả nước.
Thứ hai, chính sách tín dụng cho hộ nghèo không chỉ phát triển rộng rãi đều khắp mà còn đáp ứng cả nhu cầu cho vay ở tất cả các mô hình như hộ nghèo, cận nghèo, vừa thoát nghèo; HSSV và điều quan trọng là liên tục điều chỉnh đối tượng vay, mức vay và điều chỉnh lãi suất phù hợp.
Thứ ba, xây dựng được mối liên kết gắn bó giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và người dân. Đây là sự gắn kết, quan hệ thể hiện liên minh công - nông và thể hiện bản chất của chế độ.
Thứ tư, thiết lập được một mô hình quản trị đặc thù, phù hợp với điều kiện Việt Nam và có tính phổ biến.
Cuối cùng, NHCSXH thực hiện được phương thức quản lý tín dụng chính sách thông qua ủy thác cho các tổ chức chính trị - xã hội. Điều này cho thấy không chỉ lan tỏa về vốn, về nguồn lực mà quan trọng là lan tỏa đến việc chia sẻ tình cảm, trách nhiệm, đoàn kết, gắn bó trong nhân dân.

(Tạp chí Ngân hàng số 15, tháng 8/2017)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng