Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và đề xuất một số giải pháp phát triển

Thị trường tài chính
Bằng cách phân tích, so sánh các dữ liệu thứ cấp về thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009 - 2022, bài viết đưa ra những nhận định về thực trạng trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam như về quy mô, số lượng trái phiếu phát hành, giá trị phát hành, số lượng các công ty niêm yết trái phiếu, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch...
aa

Tóm tắt: Bằng cách phân tích, so sánh các dữ liệu thứ cấp về thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009 - 2022, bài viết đưa ra những nhận định về thực trạng trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam như về quy mô, số lượng trái phiếu phát hành, giá trị phát hành, số lượng các công ty niêm yết trái phiếu, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch...; trên cơ sở đó, bài viết rút ra một số hạn chế, tồn tại và cơ hội phát triển của thị trường này. Bài viết cũng đưa ra các kiến nghị, giải pháp để tạo điều kiện phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai, trong đó chú trọng sửa đổi khung pháp lí cho phù hợp với năng lực hiện tại của doanh nghiệp và thực tế thị trường Việt Nam cũng như đẩy mạnh xếp hạng tín nhiệm để đảm bảo minh bạch, hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.

Từ khóa: Trái phiếu doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm, nhà đầu tư

Vietnamese corporate bonds market: Current situation and recommendations


Abstract: By analyzing and comparing secondary data on the Vietnamese corporate bond market in the period 2009 - 2022, the article makes comments on the current situation of Vietnamese corporate bonds in terms of size and quantity of issued corporate bonds, value of bond issue, number of bond listing companies, trading volume and trading value, ect. On that basis, the article points out the limitations that still exist in the Vietnamese corporate bond market and future development opportunities of this market. In addition, the article makes recommendations for solutions to stabilize and develop Vietnam's corporate bond market in the future, focusing on amending the legal framework to suit the current capacity of enterprises and the reality of the Vietnamese market as well as boosting credit ratings to ensure transparency and limit risks for investors.

Keywords: Corporate bond, credit rating, investors

(Ảnh: Minh họa; nguồn: Internet)


1. Giới thiệu

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một trong những thị trường quan trọng của thị trường trái phiếu nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Tại Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã hình thành từ năm 2000, nhưng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp thì thị trường này mới bắt đầu định hình và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là trong thời gian gần đây khi nhiều công ty tìm cách đa dạng hóa nguồn tài chính và tận dụng lãi suất thấp. Sau thời gian tăng trưởng nóng, năm 2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam gặp phải nhiều bất lợi khi quy mô cũng như giá trị phát hành giảm mạnh, đồng thời xuất hiện một số sai phạm nghiêm trọng gây mất lòng tin của các nhà đầu tư. Nhận thấy thị trường trái phiếu bắt đầu tiềm ẩn những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã ra các công điện khẩn chỉ đạo để chấn chỉnh thị trường này.

2. Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009 - 2023

Nền tảng pháp lí tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam là Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán số 62/2010/QH12 (Tô Ngọc Hưng và Lê Thị Phương, 2023), sau đó được hoàn thiện hơn qua Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14, Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Tại những văn bản này, trái phiếu doanh nghiệp đã được quy định ở mục riêng liên quan đến công bố thông tin của tổ chức phát hành và niêm yết trái phiếu công ty. Cuối cùng, qua các Nghị định cụ thể như Nghị định số 153/2020/NĐ-CP và Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, trái phiếu doanh nghiệp đã được quy định rất rõ ràng liên quan đến các vấn đề chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, hay niêm yết trái phiếu doanh nghiệp.

Thị trường trái phiếu Việt Nam hình thành sớm từ những năm 1990 so với thị trường cổ phiếu (năm 2000), cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính và sự cải thiện chặt chẽ về khuôn khổ pháp lí; tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chỉ bắt đầu khởi sắc từ sau năm 2009. (Hình 1)

Hình 1: Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam và theo phần trăm so với GDP giai đoạn 2009 - 2022


Nguồn: Ngân hàng phát triển châu Á - Asian bonds


Có thể thấy, trong giai đoạn 10 năm từ 2009 - 2019, quy mô toàn thị trường đạt trung bình chỉ khoảng 3 tỉ USD, nhưng đến năm 2020 con số này tăng nhảy vọt, lên gấp 4 lần đạt mốc 12,36 tỉ USD. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục có sự tăng trưởng mạnh mẽ vào năm 2021 khi quy mô đạt 26,26 tỉ USD, cao gấp hai lần so với năm 2021 và gấp hơn 8 lần so với giai đoạn 10 năm trước đó. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam tiếp tục phát triển rất mạnh vào năm 2022 khi đạt 30,89 tỉ USD. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng của Việt Nam.

Tính theo tỉ lệ phần trăm trên GDP, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có sự phát triển tương ứng. Năm 2022, quy mô thị trường này chiếm 7,67% GDP, cao gấp 2,5 lần so với năm 2009 và gấp 4,4 lần so với năm 2019 - là năm mà thị trường trái phiếu doanh nghiệp có sự sụt giảm đáng kể trước khi đột phá phát triển mạnh mẽ ở những năm sau đó.

Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng mạnh mẽ 15 năm qua, nhưng khi so với một số quốc gia trong khu vực ASEAN thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam tương đối nhỏ (Hình 2). Cụ thể vào năm 2009, tỉ trọng quy mô thị trường trái phiếu công ty của Việt Nam chỉ đạt 2,81 tỉ USD trong khi quốc gia có quy mô lớn nhất là Malaysia với quy mô 84,17 tỉ USD, tiếp theo là Singapore với 52,74 tỉ USD. Đến năm 2022, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã tăng lên đáng kể, đạt 30,89 tỉ USD, tăng gấp 11 lần so với năm 2009. Nhìn chung, Việt Nam vẫn là quốc gia có tỉ trọng quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nhỏ nhất vào năm 2009, tuy nhiên, điều đáng ghi nhận là tốc độ tăng trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam rất ấn tượng và có tiềm năng phát triển hơn nữa trong thời gian tới khi vượt qua Indonesia và Philippines để đứng thứ 4 khi so sánh với Malaysia, Singapore và Thái Lan.

Hình 2: So sánh quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
và một số nước trong khu vực ASEAN năm 2009 và năm 2022

Đơn vị: tỉ USD

Nguồn: Ngân hàng phát triển châu Á - Asian bonds


Hình 3 cho thấy rõ hơn về số lượng trái phiếu phát hành và tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong 15 năm qua. Có thể thấy rõ ràng rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam thực sự có sự phát triển vượt bậc bắt đầu từ năm 2019, đạt đỉnh cao vào năm 2021. Tuy nhiên, một năm sau đó, tình hình trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có chiều hướng đi xuống khi số lượng phát hành chỉ đạt 640 triệu trái phiếu (giảm 78,6%).

Hình 3: Số lượng và tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009 - 2022

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiinpro


Trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam được phát hành trên nhiều thị trường khác nhau như sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM hoặc OTC (Hình 4). Có thể thấy, phần lớn lượng trái phiếu được phát hành ở thị trường OTC, phần còn lại được niêm yết và phát hành tập trung trên Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Ngoài ra, lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trên thị trường HNX và UPCOM còn khá hạn chế.

Hình 4: Chi tiết số lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành giai đoạn 2018 - 2022


Đơn vị: Trái phiếu

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiinpro


Hình 5: Số lượng tổ chức phát hành trái phiếu công ty phân theo ngành năm 2009 và 2022

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiinpro


Hình 5 cho thấy, cơ cấu theo ngành của phát hành trái phiếu công ty tại Việt Nam vào năm 2009 và 2022. Năm 2009, ngành Công nghiệp là ngành chiếm số lượng công ty phát hành trái phiếu nhiều nhất với 44 doanh nghiệp, tiếp theo là ngành hàng tiêu dùng với 34 công ty và số lượng thấp nhất là ngành Ngân hàng cũng như Dược phẩm y tế và Dịch vụ tiêu dùng. Năm 2022, cơ cấu về phân loại ngành không có sự thay đổi đáng kể khi dẫn đầu vẫn là ngành Công nghiệp với 101 công ty. Tuy nhiên, ngành chiếm tỉ trọng cao thứ hai lại rơi vào các công ty thuộc nhóm ngành Tài chính với 97 công ty. Ngành có số lượng doanh nghiệp phát hành thấp nhất vẫn là nhóm ngành Dược phẩm y tế (14 công ty) và Ngân hàng (17 công ty).

Phân loại trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam theo thời hạn chủ yếu rơi vào kì hạn 1 - 5 năm (Hình 6). Giai đoạn 2009 - 2016, tỉ trọng trái phiếu 1 - 3 năm đều chiếm dưới 50% nhưng giai đoạn sau đó đến năm 2022 thì tỉ trọng này lại thay đổi theo hướng tăng dần, chiếm hơn 50% tổng lượng trái phiếu phát hành. Kì hạn 5 - 10 năm cũng tăng nhiều trong giai đoạn này, trong khi kì hạn trên 10 năm chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cả hai giai đoạn.

Hình 6: Cơ cấu trái phiếu công ty phân loại theo thời gian đáo hạn còn lại giai đoạn 2009 - 2022


Nguồn: Ngân hàng phát triển châu Á - Asian bonds


Trên thị trường tập trung, sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là sàn giao dịch chiếm ưu thế về số lượng trái phiếu công ty niêm yết so với Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội. Hình 7 cho thấy, tình hình số lượng doanh nghiệp niêm yết từng năm trong giai đoạn 2009 - 2022. Có thể thấy, có sự sụt giảm về số lượng công ty niêm yết từ năm 2018 trở lại đây, số lượng công ty niêm yết năm 2022 chỉ có 10 công ty, trong khi số liệu này năm 2009 là 44 công ty.

Hình 7: Số lượng công ty niêm yết trái phiếu trên sàn HOSE giai đoạn 2009 - 2022

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiinpro


Mặc dù số lượng công ty niêm yết giảm nhưng nhìn chung khối lượng và giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên sàn HOSE vẫn có sự phát triển đáng kể và có xu hướng tăng trong tương lai (Hình 8). Năm 2021, khối lượng giao dịch trái phiếu công ty trên sàn này đạt 4,8 triệu trái phiếu, tăng gấp 15 lần so với năm 2009.

Hình 8: Khối lượng và giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên sàn HOSE


Đơn vị: triệu đồng


Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh - HOSE


3. Một số hạn chế, tồn tại và cơ hội phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam


3.1. Hạn chế, tồn tại

Mặc dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ trong thời qua, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, tồn tại nhất định như sau:

Thứ nhất, tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hạn chế. Số lượng công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn khá ít, tập trung vào một nhóm doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như bất động sản, công nghiệp. Chưa kể những năm gần đây, có sự sụt giảm về số lượng phát hành của công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung.

Thứ hai, tính thanh khoản của thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam còn hạn chế. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam tương đối nhỏ và kém thanh khoản so với các thị trường khác trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Singapore. Khối lượng giao dịch và tần suất giao dịch thấp cùng với quy mô nhỏ so với các nước lân cận và so với thị trường cổ phiếu có thể không khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Đối tượng giao dịch chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức hoặc nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Thứ ba, sự thiếu minh bạch là một trong những yếu tố kìm hãm sự phát triển của thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Thông tin về trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế, điều này có thể khiến nhà đầu tư khó đánh giá rủi ro của một loại trái phiếu cụ thể để đưa ra quyết định sáng suốt hơn về việc đầu tư vào trái phiếu nào.

Thứ tư, hệ thống xếp hạng tín nhiệm chưa được quy định rõ ràng. Nhiều tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam chưa được xếp hạng tín nhiệm, khiến nhà đầu tư khó đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ chức phát hành. Trên thực tế, do chưa có luật yêu cầu sử dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm khi phát hành trái phiếu ra thị trường và các nhà đầu tư thường không có thói quen chọn mua trái phiếu doanh nghiệp có xếp hạng tín dụng nên hoạt động xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam còn khá hạn chế.

Thứ năm, rào cản pháp lí vẫn còn là vấn đề nan giải, khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp sau thời gian tăng trưởng nóng đã phải về lại đúng vị trí vốn có. Khung pháp lí cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được hoàn thiện, có thể dẫn đến những bất ổn trên thị trường. Ví dụ, có những hạn chế đối với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường, điều này hạn chế tiềm năng tăng trưởng của thị trường.

Thứ sáu, lo ngại về rủi ro tập trung khá cao. Phần lớn các tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam tập trung vào các nhóm doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực như bất động sản, công nghiệp…, dẫn đến rủi ro tập trung trên thị trường. Điều này có thể dẫn đến việc thiếu đa dạng hóa cho các nhà đầu tư và các lỗ hổng tiềm ẩn cho thị trường. Ngoài ra, với tỉ lệ nhà đầu tư chuyên nghiệp chỉ chiếm 6%, cơ cấu nhà đầu tư của thị trường vẫn chủ yếu là các công ty chứng khoán và tổ chức tín dụng nhưng chưa có văn bản hướng dẫn và quy định chi tiết, đồng thời thiếu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ nên dễ phát sinh rủi ro.

3.2. Cơ hội phát triển

Bên cạnh những tồn tại, thách thức, hạn chế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam, vẫn có những cơ hội để tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường này, cụ thể:.

Thứ nhất, quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ngày càng lớn, sau 15 năm phát triển, mặc dù quy mô thị trường trường trái phiếu doanh nghiệp còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực, nhưng cho đến nay, cũng dần khẳng định rõ hơn vị thế của mình so với các nước như Indonesia, Philippines. Đây là một trong những kênh huy động vốn trung và dài hạn khá quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước để tạo ra một thị trường vốn và tín dụng cân bằng.

Thứ hai, sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc hoàn thiện khung pháp lí ngày càng tăng. Chính phủ Việt Nam đã tích cực thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong những năm gần đây, với các biện pháp như ưu đãi thuế và tạo khung pháp lí để hỗ trợ thị trường. Điều này có thể khuyến khích nhiều công ty phát hành trái phiếu hơn và thu hút nhiều nhà đầu tư hơn vào thị trường. Cụ thể, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các ban, ngành rà soát Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp trong năm 2023 và thực hiện sửa đổi khi cần thiết đối với các quy định pháp luật điều chỉnh điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp và nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Thứ ba, lạm phát của Việt Nam đang được kiểm soát tốt, lãi suất có xu hướng giảm, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Do đó, có thể có nhiều cơ hội hơn cho các công ty phát hành trái phiếu để huy động vốn, tạo điều kiện để phát triển mạnh hơn thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tương lai.

Thứ tư, Việt Nam đã hội nhập sâu hơn với nền kinh tế toàn cầu trong những năm gần đây, điều này có thể dẫn đến sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Điều này cũng có thể giúp tăng tính thanh khoản và mở rộng cơ sở đầu tư cho trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam.

4. Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam

Trong thời gian tới, để phát triển và tăng cường tính minh bạch của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam, một số giải pháp được đề xuất như sau:

Thứ nhất, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đủ điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng thông qua việc nghiên cứu, sửa đổi thủ tục cấp phép chào bán chứng khoán. Ngoài ra, các nền tảng giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ được thiết lập bởi các Sở giao dịch chứng khoán cần được triển khai nhằm tạo ra một thị trường thứ cấp minh bạch cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Thứ hai, cần có những biện pháp xử lí thật nghiêm các sai phạm để hạn chế rủi ro trong đầu tư trái phiếu cho các nhà đầu tư trái phiếu không chuyên nghiệp, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Thứ ba, tiếp tục cải thiện khung pháp lí về thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, để tăng cường trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc mua, bán trái phiếu doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần rà soát, sửa đổi, bổ sung Thông tư số 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.

Thứ tư, cần triển khai nhanh xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Bộ Tài chính nên cân nhắc áp dụng ngay quy định bắt buộc doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp thay vì hoãn thời gian áp dụng đến năm 2024 để tránh lặp lại tình trạng không minh bạch trong phát hành trái phiếu hoặc cố tình gây sai phạm, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư cũng như gây ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Nên khuyến khích doanh nghiệp thực hiện xếp hạng tín nhiệm bằng các cơ chế ưu đãi riêng và nâng cao điều kiện phát hành đối với những doanh nghiệp không có xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu để huy động vốn.

Thứ năm, nên xem xét thật kĩ quy định về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và điều kiện phát hành trái phiếu riêng lẻ tại Luật Chứng khoán. Nên định hướng rõ ràng trong tương lai gần, các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp như các công ty quản lí quỹ, ngân hàng thương mại... sẽ tham gia vào thị trường trái phiếu riêng lẻ. Sự tham gia của một số nhà đầu tư chuyên nghiệp cá nhân nhất định sẽ được xem xét đến một thời điểm nào đó, nhưng chưa phải bây giờ.

5. Kết luận

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có thời gian hình thành và phát triển trong 23 năm, nhưng thị trường này mới thực sự có sự chuyển biến tốt bắt đầu từ năm 2009. Bằng cách phân tích các số liệu thống kê kết hợp với diễn biến thông tin của thị trường trái phiếu Việt Nam, bài viết cho thấy sau 15 năm phát triển, mặc dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể như quy mô thị trường tăng, số lượng trái phiếu phát hành và tổng giá trị phát hành khá lớn, khuôn khổ pháp lí liên tục có sự điều chỉnh để phù hợp với thị trường và doanh nghiệp..., tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Bài viết đã đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam cũng như xử lí thật nghiêm các sai phạm liên quan đến phát hành trái phiếu, đủ tính răn đe; tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn phát hành trái phiếu để huy động vốn; cân nhắc việc áp dụng ngay xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và tiếp tục cải thiện khung pháp lí phù hợp với thực tế thị trường Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2020). Nghị định số 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; ban hành ngày 31/12/2020.
2. Chính phủ (2020). Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán; ban hành ngày 31/12/2020.
3. Chính phủ (2022). Nghị định số 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; ban hành ngày 16/9/2022.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2021). Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp; ban hành ngày 10/11/2021.
5. Nguyễn Bá Huy (2022). Trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay: Những bất cập trong hệ thống pháp luật, công tác quản lí và một số kiến nghị. Truy cập tại https://phaply.net.vn/trai-phieu-doanh-nghiep-o-viet-nam-hien-nay-nhung-bat-cap-trong-he-thong-phap-luat-cong-tac-quan-ly-va-mot-so-kien-nghi-a255836.html.
6. Nguyễn Trần Minh Trí (2023). Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Thực tiễn năm 2022 và triển vọng năm 2023. Truy cập tại https://tapchinganhang.gov.vn/thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-thuc-tien-nam-2022-va-trien-vong-nam-2023.htm
7. Quốc hội (2006). Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11; ban hành ngày 29/6/2006.
8. Quốc hội (2010). Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; ban hành ngày 24/11/2010.
9. Quốc hội (2019). Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14, ban hành ngày 26/11/2019.
10. Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14; ban hành ngày 17/6/2020.
11. Tô Ngọc Hưng và Lê Thị Phương (2023). Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Truy cập tại https://tapchinganhang.gov.vn/phat-trien-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-de-dap-ung-nhu-cau-von-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.htm


ThS. Nguyễn Thị Mai Huyên, TS. Nguyễn Đặng Hải Yến, ThS. NSNam
Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Vàng giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược tài chính của các ngân hàng trung ương toàn cầu. Những động thái gia tăng nắm giữ vàng không chỉ phản ánh sự thay đổi trong cách thức bảo vệ tài sản dự trữ mà còn cho thấy vai trò chiến lược của vàng trong việc đối phó với các biến động kinh tế - chính trị toàn cầu. Việc nắm giữ vàng có hàm ý lớn đối với các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách, yêu cầu sự linh hoạt, thận trọng trong việc ra quyết định về tiền tệ cũng như quản lý tài sản dự trữ quốc gia.
Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Việt Nam có một truyền thống lâu đời trong tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản. Thói quen cất giữ vàng qua nhiều thế hệ đã hình thành tâm lý không muốn đưa vàng vào hệ thống tài chính chính thức. Đa phần người dân không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc vàng, khiến họ ngần ngại khi tham gia vào các giao dịch có yếu tố kiểm soát. Lượng vàng lớn trong dân nếu không được huy động sẽ không thể phát huy được vai trò hỗ trợ ổn định tài chính tiền tệ quốc gia. Giải pháp quản lý thị trường vàng cần phải bắt đầu từ gỡ bỏ rào cản tâm lý, mở đường cho huy động lượng vàng vật chất đang nằm ngoài hệ thống.
Phân tích bản đồ tri thức trong nghiên cứu về tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Một số gợi ý cho Việt Nam

Phân tích bản đồ tri thức trong nghiên cứu về tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Một số gợi ý cho Việt Nam

Bài viết sử dụng phần mềm CiteSpace, dựa trên phương pháp phân tích bản đồ tri thức (Mapping knowledge domain Analysis), tiến hành phân tích định lượng bằng biểu đồ trực quan và diễn giải định tính của một số lượng lớn tài liệu nghiên cứu, tài liệu có độ trích dẫn, tương tác cao liên quan đến chủ đề tăng trưởng của DNNVV trên kho dữ liệu Web of Science.
Xem thêm
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng