Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987, được liên tục sửa đổi, bổ sung và thay thế vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005 và gần đây là Luật Đầu tư năm 2014. Kh...
aa

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987, được liên tục sửa đổi, bổ sung và thay thế vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005 và gần đây là Luật Đầu tư năm 2014. Khu vực FDI là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nguồn vốn FDI đã góp phần tạo nên những sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế Việt Nam.


Từ năm 1988 đến nay, thu hút vốn FDI của Việt Nam có nhiều biến động, nhưng tổng số vốn FDI có xu hướng tăng lên theo thời gian. Trong khi nguồn vốn FDI của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam không ổn định, chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng số vốn FDI. Việt Nam là quốc gia có truyền thống, lợi thế trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, thu hút nguồn vốn FDI vào nông nghiệp sẽ có vai trò quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp, thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân và đóng góp vào sự phát triển của cả nước.

Thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn

Thu hút FDI vào nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Trong bảng số liệu dưới đây, số vốn FDI trong nông nghiệp đạt giá trị cao nhất là năm 2008 (2.366,98 triệu USD), chiếm 3,3% tổng vốn FDI đăng ký mới, sau đó, sụt giảm mạnh cả về số lượng và tỉ trọng. Trong những năm gần đây, FDI thu hút vào nông nghiêp đã có xu hướng tăng lên cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng FDI đăng ký tại Việt Nam. Năm 2015, FDI đăng kí mới trong nông nghiệp đạt 241,15 triệu USD, chiếm tỉ trọng 1%; năm 2017, tăng lên mức 394,9 triệu USD, chiếm tỉ trọng 1,1% (tăng khá so với năm thấp nhất về số lượng ở mức 87,5 triệu USD vào năm 2012 và về tỉ trọng ở mức 0,44% vào năm 2013). (Bảng 1)

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết 31/12/2017, đã có 511 dự án với số vốn là 3.521,2 triệu USD được thu hút vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam, xếp thứ 12 về số dự án và đứng thứ 10 về số vốn đăng ký. Nếu tính bình quân quy mô một dự án nông nghiệp mới chỉ đạt 6,89 triệu USD một dự án.

- Cơ cấu FDI vào lĩnh vực nông nghiệp theo ngành phân bổ không đều, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như chế biến gỗ, lâm sản, chăn nuôi và chế biến thức ăn chăn nuôi, bước đầu có sự đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt (tập trung ở sản phẩm rau, hoa), chế biến nông - lâm - thủy sản. FDI trong nông nghiệp (bao gồm cả chế biến nông sản, lâm nghiệp và thủy sản) được tập trung vào một số ngành. Trong 1988 - 2007, các dự án chế biến nông sản chiếm 54% tổng vốn đăng ký FDI trong nông nghiệp, tiếp theo là trồng rừng và chế biến lâm sản (25%), chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi (13%), và trồng trọt (dưới 10%) (FIA, 2012). Từ năm 1998 đến năm 2012, các dự án FDI trong chế biến nông sản đạt 1,2 tỷ USD, tiếp theo là trồng trọt (276 triệu USD), chăn nuôi (190 triệu USD), thủy sản (128 triệu USD), và lâm nghiệp (79,9 triệu USD). Các khoản đầu tư còn lại trong nông nghiệp đạt 501 triệu USD (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2014d).

- Cơ cấu FDI vào lĩnh vực nông nghiệp theo địa phương: Các dự án tập trung ở vùng đồng bằng Nam Bộ và duyên hải Nam Trung bộ, ở phía Bắc, mới chỉ có một số dự án của Nhật Bản đầu tư tại Hà Nam.

- Cơ cấu FDI trong lĩnh vực nông nghiệp theo đối tác: Có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Những quốc gia, vùng lãnh thổ hàng đầu trong đầu tư trong nông nghiệp Việt Nam là: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia.

- Hình thức đầu tư FDI trong lĩnh vực nông nghiệp còn thiếu đa dạng, chủ yếu là hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài (75,6%) và liên doanh chiếm 21,2%.

- Khuôn khổ pháp lý cho đầu tư đã có nhiều cải thiện thông qua sự điều chỉnh của Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật quản lý thuế… Đặc biệt để thu hút đầu tư trong nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành một số nghị định như: Nghị định số 210/2006/NĐ-CP về chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn; Nghị định số 20/2011/NĐ-CP về hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết số 55/2010/QH2 về miễn, giảm thuế sử dụng đất trong nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2020; Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Thể chế thu hút FDI được phân cấp cho các địa phương, bên cạnh việc đem lại sự năng động hiệu quả cho các địa phương, cũng dẫn đến tình trạng các địa phương cạnh tranh nhau để thu hút FDI. Với mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng cao, các địa phương thường mong muốn thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.


Thông qua một số đánh giá thực trạng thu hút FDI vào nông nghiệp của Việt Nam cho thấy, thu hút FDI trong lĩnh vực này thấp, không ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng của ngành nông nghiệp.

Thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp gặp khó khăn do:

- Hoạt động sản xuất nông nghiệp luôn tiềm ẩn những rủi ro về công nghệ và giá cả. Vì vậy rất khó khăn trong thu hút đầu tư, đặc biệt là những dự án đầu tư lớn.

- Chiến lược, định hướng, chính sách ưu đãi trong thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam có nhiều điểm bất cập. Thủ tục hành chính hiện còn rườm rà, phức tạp, vai trò của các cấp chính quyền tạo ra sự kết nối giữa hộ nông dân với doanh nghiệp còn gặp khó khăn.

- Sản xuất nông nghiệp của Việt Nam là sản xuất nhỏ: Đất đai manh mún, phân tán, quy mô nhỏ và quyền sử dụng đất thuộc về các hộ gia đình; trình độ của lao động trong nông nghiệp thấp, kỷ luật lao động cũng như tính chuyên nghiệp trong lao động không cao; Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp có lợi nhuận thấp, tốc độ và thời gian thu hồi vốn chậm.

- Tư duy, công tác vận động xúc tiến thu hút FDI vào nông nghiêp chưa có hiệu quả, thiếu nguồn lực và kinh phí để thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư.

Giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp

Thứ nhất, hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách về khuyến khích thu hút FDI trong nông nghiệp

- Khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư vào bốn lĩnh vực được ưu tiên (Sản xuất và phát triển giống cây trồng, vật nuôi; Sản xuất nguyên vật liệu phụ trợ tạo giá trị gia tăng cao, sản xuất thức ăn bổ sung phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi, sản xuất thiết bị sản xuất chuồng trại…; Chế biến sâu nông - lâm - thuỷ sản để sản xuất sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao; Tạo cơ chế để các doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

- Có chính sách hỗ trợ rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là hàng nông sản xuất khẩu. Cụ thể là: (1) Xây dựng quỹ hỗ trợ rủi ro từ nguồn tiền hỗ trợ của nhà nước, phụ thu từ xuất khẩu, đóng góp của các doanh nghiệp; (2) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tham gia các thể chế quốc tế về đầu tư, đảm bảo đầu tư, ký kết các hiệp định song phương, đa phương nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp; 3) Hoàn thiện và tăng cường quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng.

- Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với định hướng sản xuất được lựa chọn. Cơ sở hạ tầng nông thôn cần đồng bộ bao gồm: hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông, hệ thống kho chứa, năng lượng, nước sạch, công nghệ thông tin.

- Điều tra, triển khai thực hiện các dự án đào tạo nghề cho nông dân đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư về tay nghề, tính kỷ luật và thái độ chuyên nghiệp.

Thứ hai, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung đất trong sản xuất nông nghiệp

Luật Đất đai của Việt Nam đã được điều chỉnh 5 lần kể từ năm 1986 (năm 1988, năm 1993, năm 1998, năm 2003, năm 2013) đã tạo điều kiện cho quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp. Để triển khai quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp có hiệu quả cần phát huy vai trò của các cấp chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương, đặc biệt các địa phương có thế mạnh về nông nghiệp cần phát huy vai trò trong vận động để người nông dân chủ động trong hợp tác. Chính quyền địa phương đóng vai trò là cầu nối giữa người nông dân với doanh nghiệp, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp.

Thứ ba, đổi mới tư duy và tăng cường hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư vào nông nghiệp

Tăng cường vốn từ ngân sách của các địa phương cho các hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp.
Cung cấp thông tin đầy đủ về những ưu đãi khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuế nhập khẩu, chính sách bảo hiểm nông nghiệp…

Thứ tư, xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp có chú trọng đặc biệt đến vị trí, vai trò của người nông dân

Xây dựng chuỗi giá trị cho nông nghiệp có vai trò quan trọng nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, nâng cao thu nhập của nông dân, đồng thời đặt ra yêu cầu đối với người nông dân về tư duy, trình độ.

Trong bối cảnh thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững và nâng cao giá trị gia tăng, thu hút được nguồn vốn FDI với số lượng, chất lượng và quy mô phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Tài liệu tham khảo:
Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2017-2018 Việt Nam và thế giới. NXB Thông tin và truyền thông
Làm gì để FDI “đổ” vào nông nghiệp nhiều hơn? Tapchitaichinh.vn ngày 3/8/2018.
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/fdi-vao-nong-nghiep-qua-thap-do-dau-2018022115152942.htm
w.w.w.gso.gov.vn

Ths. Đàm Thị Thanh Thủy
Ths. Phí Thị Nguyệt


Nguồn: TCNH số 21/2018


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng