Thanh toán xuyên biên giới đang mở rộng

Quốc tế
Dựa trên chiến lược ưu tiên phát triển thanh toán xuyên biên giới do G20 đề xuất vào năm 2020, Ủy ban Thanh toán và hạ tầng thị trường (CPMI) thuộc Ngân hàng Thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements - BIS) đã phối hợp với Ủy ban Ổn định tài chính (FSB)...
aa

Tóm tắt: Dựa trên chiến lược ưu tiên phát triển thanh toán xuyên biên giới do G20 đề xuất vào năm 2020, Ủy ban Thanh toán và hạ tầng thị trường (CPMI) thuộc Ngân hàng Thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements - BIS) đã phối hợp với Ủy ban Ổn định tài chính (FSB), các cơ quan sắp đặt tiêu chuẩn và các tổ chức quốc tế khác có liên quan đưa ra nền tảng để triển khai chiến lược này. Giữa năm 2023, CPMI đã tiến hành điều tra tình hình và kết quả phát triển thanh toán xuyên biên giới, bắt đầu từ tháng 5/2023 và kết thúc vào tháng 9/2023. Kết quả điều tra cho thấy, các nỗ lực cải thiện thanh toán xuyên biên giới đã ghi nhận những thành công ban đầu, CPMI sẽ tiếp tục theo dõi tiến triển cải thiện thanh toán xuyên biên giới dựa trên các chủ đề ưu tiên và đưa ra định hướng cần thiết.

Từ khóa: Điều tra, thanh toán xuyên biên giới, RTGS, FPS, DNS


CROSS-BORDER PAYMENTS GET RAPID DEVELOPMENT


Abstract:
Based on the priority strategy for cross-border payments development proposed by the G20 in 2020, the Committee on Payments and Market Infrastructures (CPMI) of the Bank for International Settlements (BIS) has coordinated with the Financial Stability Board (FSB), standard setting bodies and other relevant international organizations to provide a platform for implementing this strategy. In mid-2023, CPMI conducted a survey on the current situation and results of cross-border payments development, starting from May 2023 and ending in September 2023. The survey results showed that efforts to improve cross-border payments have recorded initial successes, thereby, CPMI would continue to monitor the progress of cross-border payments improvement based on priority topics and provide necessary guidance.

Keywords: Investigation, cross-border payment, RTGS, FPS, DNS

Một số kết quả hoạt động thanh toán xuyên biên giới

Ngày 04/6/2024, BIS công bố báo cáo của CPMI về kết quả điều tra tình hình hoạt động thanh toán xuyên biên giới. Báo cáo nêu rõ, tháng 10/2020, lãnh đạo các nước G20 đã phê chuẩn kế hoạch chiến lược thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới. Kể từ đó, CPMI đã phối hợp với FSB, các cơ quan sắp đặt tiêu chuẩn và một số tổ chức quốc tế khác có liên quan đặt nền móng cơ bản để tiếp tục phát triển. Tháng 10/2021, G20 phê chuẩn nhóm các mục tiêu định lượng với kỳ vọng phần lớn sẽ cán đích vào cuối năm 2027. Năm 2023, FSB công bố chiến lược ưu tiên để cải thiện thanh toán xuyên biên giới và báo cáo tiến triển đã đạt được. Đó là các chỉ số chủ chốt về sản lượng đầu ra, bao gồm thông tin về tốc độ, chi phí, tính minh bạch và khả năng tiếp cận.



Ảnh: Nguồn Internet


Giữa năm 2023, CPMI tiến hành điều tra tình hình phát triển thanh toán xuyên biên giới, bắt đầu từ tháng 5/2023 và kết thúc vào tháng 9/2023, tập trung vào ba chủ đề ưu tiên: (i) Khả năng tương tác và mở rộng hệ thống thanh toán; (ii) Trao đổi dữ liệu và tiêu chuẩn tin nhắn; (iii) Khung khổ pháp lý, điều chỉnh và giám sát.

Đối tượng điều tra là các hệ thống thanh toán khu vực công và các hệ thống thanh toán tư nhân hàng đầu, xoay quanh các chủ đề ưu tiên. Thông tin thu thập được vào tháng 9/2023, bao gồm tình hình hoạt động và kế hoạch của các hệ thống thanh toán gộp giữa hai ngân hàng theo thời gian thực (RTGS) mà không theo đợt, các hệ thống thanh toán nhanh (FPS) và quyết toán ròng theo phiên (DNS).

Báo cáo dựa trên kết quả điều tra 71 ngân hàng trung ương (NHTW) từ các nước phát triển (AEs) và nhóm các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs), với 166 hệ thống thanh toán, bao gồm 69 hệ thống RTGS, 45 hệ thống FPS và 52 hệ thống DNS. Báo cáo tập trung chủ yếu vào các hệ thống FPS và RTGS, chỉ đề cập có chọn lọc đối với DNS.

Kết quả điều tra cho thấy, các NHTW tại châu Á - Thái Bình Dương báo cáo chiếm tỉ trọng FPS và RTGS cao nhất. Hầu hết các nước đều có hệ thống RTGS, thậm chí 8 ý kiến trả lời là có 2 hệ thống RTGS trở lên. Trên 50% ý kiến trả lời cho biết, FPS đang hoạt động hoặc có kế hoạch triển khai tại quốc gia, 4 quốc gia có trên 1 hệ thống FPS đang hoạt động. Tính từ năm 2018, số lượng FPS đang hoạt động đã tăng gấp hai lần, phản ánh sự gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. FPS và DNS chiếm tỉ trọng áp đảo trong thanh toán bán lẻ, trong khi trên 50% hệ thống RTGS xử lý cả thanh toán bán buôn và bán lẻ.

Các NHTW là chủ sở hữu, cơ quan vận hành/hoặc thanh toán đối với trên 90% trong số hệ thống RTGS. Đối với FPS, phần lớn các NHTW đóng vai trò là cơ quan thanh toán, nhưng các thực thể tư nhân đóng vai trò chủ sở hữu hoặc vận hành liên quan chiếm khoảng 50% số lượng hệ thống. Khoảng ¾ số hệ thống thanh toán chỉ xử lý một loại tiền tệ, phần còn lại 25% xử lý nhiều đồng tiền khác nhau (bao gồm chuyển đổi tiền tệ chéo và chuyển đổi giữa nhiều đồng tiền). Trong vòng 5 năm tới đây, khoảng 43% số hệ thống FPS sẽ triển khai mô hình thanh toán đa tiền tệ.

Khả năng tương tác và mở rộng hệ thống thanh toán

Việc tiếp tục ưu tiên chủ đề tương tác và mở rộng các hệ thống thanh toán tập trung vào việc gia hạn thời gian hoạt động, mở rộng tiếp cận hệ thống thanh toán và cải thiện khả năng tương tác cũng như kết nối. Trong đó, việc mở rộng và hiệu chỉnh thời gian hoạt động của các hệ thống thanh toán chủ chốt giữa các quốc gia có thể đẩy nhanh tốc độ thanh toán xuyên biên giới, cải thiện quản lý thanh khoản và giảm rủi ro thanh toán.

Khoảng ¼ số hệ thống RTGS báo cáo mở rộng thời gian hoạt động

Theo thiết kế, FPS hoạt động liên tục 24/7, trong khi các hệ thống RTGS nhìn chung chỉ hoạt động trong khung thời gian nhất định, chỉ có 7/69 báo cáo là hoạt động 24/7. Về cơ bản, các hệ thống RTGS đều tạo thuận lợi cho thanh toán tiền NHTW, với kết quả là cung cấp các dịch vụ quan trọng cho những hệ thống thanh toán khác và sắp xếp liên quan đến các khoản thanh toán xuyên biên giới. Sự chồng lấn hạn chế về thời gian hoạt động của hệ thống RTGS giữa các quốc gia có thể dẫn đến sự chậm trễ trong thanh toán xuyên biên giới, nhất là giữa các nước có nhiều múi giờ khác nhau. Kết quả điều tra cho thấy, tình trạng chênh lệch đáng kể về thời gian hoạt động của RTGS vẫn là vấn đề tồn tại làm cản trở hoạt động thanh toán xuyên biên giới. Việc mở rộng hoặc hiệu chỉnh thời gian hoạt động sẽ thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới, cải thiện quản lý thanh khoản, giảm bớt rủi ro thanh toán và nâng cao hiệu quả của các hệ thống thanh toán phụ trợ được kỳ vọng sẽ sử dụng trong thanh toán xuyên biên giới.

CPMI thừa nhận ba trạng thái tiềm năng đối với việc kéo dài và hiệu chỉnh thời gian hoạt động của hệ thống thanh toán: (i) Tăng thêm thời gian hoạt động hiện hành (nhưng thấp hơn 24/7); (ii) Hoạt động vào ngày nghỉ cuối tuần; (iii) Mở rộng hoạt động lên 24/7.

Kết quả điều tra cho thấy, khoảng ¼ (18) hệ thống RTGS báo cáo các kế hoạch kéo dài thời gian hoạt động trong vòng 5 năm tới. Trong số kế hoạch này, 41% tăng thêm thời gian hoạt động trong ngày làm việc, 37% tăng thêm thời gian hoạt động trong ngày nghỉ cuối tuần và 22% mở rộng thời gian hoạt động lên 24/7. Các hệ thống thanh toán tại EMDEs, cụ thể là tại Trung Đông và châu Phi, có xu hướng sẽ kéo dài thời gian hoạt động.

Đối với những hệ thống RTGS chưa có kế hoạch kéo dài thời gian hoạt động, kết quả điều tra cho thấy, hoạt động 24/7 của FPS đã đáp ứng nhu cầu về kéo dài thời gian hoạt động trên thị trường trong nước. Kết quả này cho thấy, với 42 FPS (93%) chỉ xử lý thanh toán bán lẻ, nhu cầu thị trường còn hạn chế và thị trường có vẻ đang sẵn sàng mở cửa 24/7 đối với thanh toán bán buôn tại những quốc gia này.

Tham gia thanh toán trực tiếp vẫn lệ thuộc vào cải cách pháp lý và quản lý

Việc tiếp cận trực tiếp các hệ thống thanh toán trong nước đang giúp các ngân hàng, các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán (PSPs) phi ngân hàng và hạ tầng thị trường tài chính (FMIs) cung cấp dịch vụ thanh toán xuyên biên giới một cách an toàn và hiệu quả. Hầu như tất cả FPS và các hệ thống RTGS (97% hay 111 hệ thống) có chính sách tiếp cận rõ ràng, nhưng 87% số hệ thống báo cáo là chính sách tiếp cận bị ảnh hưởng của nhiều quy định pháp lý trong nước.

Khoảng 1/3 số hệ thống FPS và RTGS (15 và 23 hệ thống) có kế hoạch mở rộng tiếp cận hệ thống, riêng các FPS dự tính sẽ triển khai ngay trong ngắn hạn, với 2/3 số hệ thống sẽ tiến hành trong vòng 2 năm tới. Trong số 1/3 hệ thống này, khoảng 40% hệ thống FPS và 65% hệ thống RTGS đang tiến hành phân tích chu kỳ hoạt động. Kết quả điều tra cũng cho thấy, khả năng mở rộng tiếp cận phụ thuộc vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý và quản lý trong nước.

Liên kết nội bộ hiện hành chủ yếu dựa trên sắp xếp song phương

Việc dàn xếp liên kết nội bộ các hệ thống thanh toán cho phép ngân hàng và PSPs khác tiến hành các giao dịch lẫn nhau mà không phải tham gia hệ thống thanh toán tương tự hay sử dụng các trung gian (ví dụ, ngân hàng đại lý). Cách dàn xếp này có thể rút ngắn chuỗi giao dịch, giảm chi phí và tăng cường mức độ minh bạch và tốc độ thanh toán.

Khoảng 30% FPS báo cáo là đã sắp xếp liên kết thanh toán xuyên biên giới, chủ yếu là trong nội bộ khu vực, như trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương hay châu Âu chẳng hạn. Số lượng các mắt xích thanh toán đã tăng đáng kể, với 22 FPS sẽ bắt đầu xây dựng hoặc bổ sung liên kết trong hai năm tới. Tuy nhiên, một số kế hoạch vẫn đang trong giai đoạn ban đầu, do 18% (4 FPS) có kế hoạch tiến hành liên kết trong vòng 2 năm tới và 39% (7 FPS) có kế hoạch tiến hành liên kết trong vòng 5 năm tới vẫn chưa quyết định mô hình áp dụng.

Hiện tại, các mối liên kết song phương vẫn là mô hình phổ biến, chiếm khoảng 54% (7 trong số các hệ thống hiện hành). Trong trung hạn, sắp xếp thanh toán đa phương như mô hình phân phối “hub và spoke” - khi một loạt spoke kết nối các điểm xa với một hub trung tâm và những giải pháp thông thường - sẽ được quan tâm triển khai áp dụng, với khoảng 32% FPS có kế hoạch triển khai mô hình này trong 2 năm tới và 11% FPS sẽ áp dụng trong vòng 3 - 5 năm tới. Tỉ trọng các liên kết thanh toán đa phương đang tăng nhanh, mặc dù hiện nay chỉ chiếm 8%; 9% FPS báo cáo sẽ triển khai trong vòng 2 năm tới, 28% FPS có kế hoạch triển khai trong vòng 3 - 5 năm tới. Ngoài ra, trên 50% FPS liên kết song phương đã lên kế hoạch liên kết thanh toán đa phương trong tương lai. Điều này cho thấy, các mối liên kết thanh toán hiện hành đang trong giai đoạn thử nghiệm. Tương tự, số lượng các hệ thống thanh toán đa tiền tệ và thanh toán chéo giữa các loại tiền sẽ tăng nhanh. Cho tới nay, các FPS vẫn tập trung thúc đẩy thanh toán nhanh trên thị trường trong nước, lợi ích của các sáng kiến liên kết thanh toán, vì thế, vẫn mang tính dài hạn.

Tiềm năng của các giao diện lập trình ứng dụng

Nhờ giảm bớt can thiệp thủ công và trao đổi dữ liệu giữa các chuỗi thanh toán, các giao diện lập trình ứng dụng (APIs) có thể tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả và tốc độ thanh toán xuyên biên giới. APIs ngày càng được nhiều PSPs chấp nhận, với 65% (45 hệ thống RTGS) và 93% (42 FPS) có kế hoạch sử dụng APIs trong vòng 5 năm tới, nhất là các NHTW tại Trung Đông và Bắc Phi.

Các giao thức mạng API được cho là vẫn kém hài hòa so với tiêu chuẩn mô hình dữ liệu ISO 20022, cản trở khả năng tương tác và giảm các lợi ích tiềm tàng của việc triển khai thực hiện. Các biện pháp thúc đẩy hài hòa APIs đã được G20 xác định trong chương trình phát triển thanh toán xuyên biên giới với mục tiêu ưu tiên là hướng tới thanh toán xuyên biên giới một cách nhanh chóng, chi phí thấp và minh bạch hơn. Trong số các hệ thống thanh toán đang sử dụng APIs, khoảng 50% cho biết, APIs đang dựa trên tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.

Khung khổ pháp lý, quản lý và giám sát

Công việc xung quanh chủ đề ưu tiên này là nâng cao hiệu quả của môi trường pháp lý, quản lý và giám sát đối với thanh toán xuyên biên giới, trong khi vẫn đảm bảo an toàn, hiệu quả và tính toàn vẹn. Trọng tâm tập trung vào việc quản lý, giám sát ngân hàng và phi ngân hàng, cải thiện thông tin cung cấp cho người sử dụng cuối cùng, áp dụng đồng bộ các quy định về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT).

Khung khổ pháp lý đối với các định chế phi ngân hàng có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, nhưng sẽ cải thiện trong tương lai nhờ tiến bộ công nghệ tạo thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ thanh toán xuyên biên giới. Sự khác biệt về các quy định quản lý ngân hàng và phi ngân hàng đang cản trở khả năng của các định chế phi ngân hàng trong việc tiếp cận dịch vụ thanh toán do các ngân hàng và FMIs cung cấp, hạn chế cạnh tranh thị trường về phát triển dịch vụ thanh toán xuyên biên giới.

Các đối tượng tham gia phỏng vấn thừa nhận tầm quan trọng của PSPs phi ngân hàng trong việc thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới. Nhiều người trong số này cho biết các kế hoạch cải cách khung khổ giám sát và điều chỉnh liên quan, nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa những kế hoạch này, đòi hỏi phải hoàn thiện cải cách. Những nước đã cho phép các định chế phi ngân hàng tham gia một số hệ thống thanh toán (ở mức độ nào đó) có xu hướng cho phép tham gia trực tiếp hoặc chuyển từ cách tiếp cận quản lý thể nhân sang quản lý dựa trên rủi ro và hoạt động cụ thể. Về tổng thể, các đối tượng tham gia phỏng vấn đều có thiên hướng đổi mới theo xu hướng đồng quy, mặc dù còn khác nhau về tốc độ và mức độ nghiện rủi ro.

Trong tương lai, nhận dạng điện tử duy nhất đối với những cá nhân và thực thể pháp lý (còn gọi là “đăng ký cài đặt proxy” dựa trên số điện thoại hay nhận dạng thay thế dựa trên thông tin tài khoản) sẽ được sử dụng phổ biến, nguyên nhân là cách thức này có thể giảm mức độ sai sót trong quy trình và không cần phải chuyển đổi hay diễn giải dữ liệu thanh toán. Khoảng một nửa người tham gia phỏng vấn cho biết, đăng ký cài đặt proxy đã hoặc sẽ sớm được giới thiệu ở trong nước, thường là một bộ phận của FPS.

Kết quả điều tra cho thấy, do các nước có điểm xuất phát khác nhau, nên định hướng của G20 về phát triển thanh toán xuyên biên giới không dựa trên một cách tiếp cận chung. Tuy nhiên, các nỗ lực cải thiện thanh toán xuyên biên giới đã ghi nhận những thành công ban đầu, với 71% số hệ thống RTGS và 91% FPS đã hoàn thành hoặc có kế hoạch hoàn thành tối thiểu hai mục tiêu ưu tiên. CPMI sẽ tiếp tục theo dõi tiến triển cải thiện thanh toán xuyên biên giới dựa trên các chủ đề ưu tiên và đưa ra định hướng cần thiết.


Nguồn tham khảo: BIS tháng 6/2024

Vũ Xuân Thanh - NHNN

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Xem thêm
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng