Tài chính xanh doanh nghiệp - Giải pháp phát triển bền vững tại Việt Nam

Chính sách
Tại Việt Nam, tài chính xanh là tiền đề trong việc triển khai chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
aa

Tóm tắt: Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước. Trong đó, tài chính xanh được xem là một phương thức quan trọng để hướng đến tăng trưởng xanh và bền vững. Thúc đẩy dòng vốn xanh là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển bền vững, từ đó tạo thành một hệ sinh thái bền vững, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh tại Việt Nam.

Từ khóa: Tài chính xanh, doanh nghiệp, phát triển bền vững.

THE GREEN FINANCE FOR BUSINESSES: SUSTAINABLE DEVELOPMENT SOLUTIONS IN VIETNAM

Abstract: Green growth and sustainable development are key, consistent policies of the Party and State. The green finance also is considered an important approach to promote green and sustainable growth. Encouraging green capital flows is one of the crucial factors that support businesses to focus on building and implementing sustainable development strategies, thereby creating a sustainable ecosystem and realizing The National Strategy For Green Growth in Vietnam.

Keywords: Green growth, businesses, sustainable development.

1. Tài chính xanh và phát triển biền vững

Tài chính xanh là xu hướng đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia trên toàn thế giới nhằm thúc đẩy hành trình xanh hóa nền kinh tế. Tại Việt Nam, tài chính xanh là tiền đề trong việc triển khai chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi xanh, sử dụng các nguồn năng lượng sạch và có thể tái tạo, thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà kính làm chiến lược, lợi thế cạnh tranh với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với bối cảnh tác động biến đổi khí hậu diễn ra trên toàn cầu ngày càng phức tạp, là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, xếp hạng 127 trong số 182 quốc gia, do đó, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tài chính xanh được xem là giải pháp quan trọng, góp phần vào quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế.

Tại Việt Nam, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tập trung vào 3 nhiệm vụ chiến lược gồm: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản xuất; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Chính phủ đã ban hành khung pháp lý, chiến lược phát triển thị trường tài chính xanh và một số nghị định triển khai, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có thông tư khuyến khích để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Phát triển tài chính xanh ở Việt Nam là hướng đi đúng đắn trong chiến dịch tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, song lộ trình còn nhiều thách thức, đó là nhận thức về tài chính xanh còn hạn chế; chính sách, luật pháp còn thiếu hoặc chưa hỗ trợ hiệu quả việc phát triển tài chính xanh. Bên cạnh đó, sản phẩm tài chính xanh tại các doanh nghiệp và ngân hàng còn thiếu phong phú, gặp nhiều khó khăn khi triển khai; chưa có tính sẵn sàng; nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự án xanh, sản phẩm xanh còn eo hẹp. Vì vậy, nâng cao nhận thức và hiểu biết về tài chính xanh trong phát triển bền vững tại các tổ chức tín dụng (TCTD), doanh nghiệp... đồng thời xác định những cơ hội và thách thức trong quá trình áp dụng tại Việt Nam là điều cần thiết.

2. Thực trạng tài chính xanh doanh nghiệp tại Việt Nam

Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đang hướng tới sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường trước diễn biến ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã và đang thực hiện các mục tiêu nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam tăng cường khuyến khích doanh nghiệp phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo cơ chế phân bổ tài nguyên và nguồn lực bình đẳng, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát phân bổ tài nguyên và nguồn lực. Trong đó, tài chính xanh giúp các quốc gia đạt được mục tiêu phát triển bền vững, đến nay, thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đã định hình nền tảng và phát triển với 3 cấu phần gồm: Thị trường tín dụng xanh; thị trường cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh.

Về thị trường tín dụng xanh

Tín dụng xanh hiện nay đang là xu hướng trong ngành Ngân hàng và tài chính toàn cầu, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cũng đi theo xu hướng này. Tín dụng xanh là loại hình tín dụng do ngân hàng cung cấp cho các dự án được coi là thân thiện với môi trường hoặc bảo vệ hệ sinh thái. Ngành Ngân hàng là kênh tài chính quan trọng cho nền kinh tế thực hiện xanh hóa dòng vốn đầu tư

phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững. Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Đồng thời, NHNN cũng đã triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy tín dụng xanh, trong đó tăng cường hỗ trợ TCTD phát hành trái phiếu xanh, tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, tham gia những chương trình hợp tác tài chính xanh.

Theo số liệu từ NHNN, dư nợ tín dụng xanh trong hệ thống ngân hàng tăng trưởng trung bình 22%/năm trong giai đoạn 2017 - 2023, tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh trong những năm gần đây đã vượt quá tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân, cho thấy tỉ trọng tín dụng xanh trên tổng dư nợ tăng đáng kể. Tính đến ngày 30/11/2024 đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỉ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%. Đặc biệt, dư nợ tín dụng các TCTD cấp tín dụng đánh giá về các rủi ro môi trường đã tăng lên khoảng 3,2 triệu tỉ đồng trong tổng số dư nợ của cả hệ thống là 15 triệu tỉ đồng.

Hiện nay, nhiều TCTD đã đưa ra các gói và chương trình tín dụng xanh phù hợp với nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh. Một số NHTM cổ phần trong chiến lược kinh doanh hằng năm tiếp tục tập trung triển khai các hoạt động kinh doanh gắn với chiến lược số hóa và xanh hóa. Các ngân hàng xây dựng danh mục sản phẩm tín dụng xanh đa dạng, tập trung vào ô tô điện, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và đã triển khai thí điểm dự thảo Sách trắng về mục tiêu trung hòa carbon tại các đơn vị kinh doanh.

Theo số liệu tại Hội thảo “ESG trong ngành Ngân hàng: Thực thi để dẫn đầu” tổ chức tháng 11/2024, ngành Ngân hàng luôn tiên phong trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG, NHNN đã có nhiều giải pháp, định hướng, hướng dẫn, chỉ đạo liên quan tới nội dung ESG trong hoạt động ngân hàng. Các TCTD chủ động tích hợp yếu tố môi trường và xã hội trong chiến lược phát triển, mô hình hoạt động; hoàn thiện mô hình tổ chức; quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Một số ngân hàng có đóng góp đáng kể vào tín dụng xanh: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có tỉ trọng tài trợ dự án xanh trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng tăng từ 0,9% năm 2020 lên 1,8% năm 2023. Tính đến ngày 30/6/2024, dư nợ cho vay đối với lĩnh vực xanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đạt 27.816 tỉ đồng, với 42.485 khách hàng còn dư nợ; NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội có tỉ trọng dư nợ cấp tín dụng cho lĩnh vực xanh chiếm gần 10% tổng dư nợ…

Như vậy, trước những tác động ngày càng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, việc phát triển bền vững cùng với bảo vệ môi trường đang trở thành xu hướng phát triển đặc trưng của các quốc gia trên thế giới. Trong mối liên kết đặc thù giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ngân hàng đóng vai trò như một mắt xích trung gian, tác động gián tiếp đến môi trường thông qua hoạt động của khách hàng. Với định hướng, chỉ đạo từ Chính phủ, NHNN và sự nỗ lực của các ngân hàng, tín dụng xanh đang có những chuyển biến tích cực, nhận được nhiều sự quan tâm với hạn mức đầu tư ngày càng cao.

Về thị trường cổ phiếu xanh

Cổ phiếu xanh là cổ phiếu của các công ty tập trung vào sản phẩm, dịch vụ hoặc công nghệ thân thiện với môi trường. Các công ty hướng đến mục tiêu giảm thiểu tác động môi trường và đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các lĩnh vực chính trong cổ phiếu xanh bao gồm năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, thủy điện, địa nhiệt và sinh khối), hiệu quả năng lượng (lưới điện thông minh, đèn LED, lưu trữ năng lượng), xe điện và phương tiện giao thông (ô tô điện, cơ sở hạ tầng sạc, xe buýt và xe tải điện, xe đạp và xe tay ga điện), nông nghiệp và thực phẩm bền vững (nông nghiệp hữu cơ, nuôi trồng thủy sản, thịt thực vật và thịt nuôi cấy), tái chế và quản lý chất thải, xử lý nước và nước thải, xây dựng và xây dựng xanh.

Tại Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các sở giao dịch chứng khoán, Viện Thành viên Hội đồng Quản trị Việt Nam (VIOD)... đã hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện công bố thông tin và minh bạch hóa các hoạt động về tài chính xanh; khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán thực hiện báo cáo tài chính, báo cáo thường niên đề cập đến phát triển bền vững, phát triển xanh.

Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang chuyển dịch nhanh trong “cuộc đua xanh”, từ tư duy nhà quản trị điều hành, nhận thức đến hành động trong thực hành kinh doanh bền vững - kinh doanh nhằm tạo ra những giá trị mới cho xã hội. Một số doanh nghiệp đã vươn lên vị trí nhóm dẫn đầu thị trường với chiến lược phát triển bền vững tiên phong trong thực hiện phát triển bền vững như Tập đoàn Vingroup, Vinamilk, Bảo Việt, NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Tập đoàn PAN, SASCO, Traphaco, Tổng Công ty May 10, PNJ, TBS…

Từ khi chính thức niêm yết năm 2006, đến nay, Vinamilk vẫn là một trong những cổ phiếu lớn trong rổ VN30 và nhiều năm liền có mặt trong nhóm 20 cổ phiếu “xanh” VNSI dẫn đầu về tính bền vững xét theo chỉ tiêu ESG. Doanh nghiệp này còn cho thấy sự bền bỉ trong chiến lược phát triển bền vững, khi là đơn vị tiên phong về hoạt động ESG tại Việt Nam, điển hình là các chương trình hướng đến mục tiêu Net Zero vào năm 2050… Đây cũng là một điểm sáng của Vinamilk đối với giới đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh xu hướng đầu tư ESG ngày càng gia tăng. Với các cơ sở nền tảng đã có và động lực phát triển hiện nay, Vinamilk được đánh giá là đại diện tiêu biểu của doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa.

Tổng Công ty May 10 đã giữ vững và mở rộng thị phần của công ty tại thị trường trong nước và quốc tế nhờ chuyển đổi xanh, đa dạng hóa sản phẩm. Tổng Công ty May 10 là một trong những doanh nghiệp có thị phần xuất khẩu chiếm đến 80%, trong đó chủ yếu là thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU, Hồng Kông (Trung Quốc)… Trước xu hướng tiêu dùng xanh, sản xuất bền vững tại thị trường quốc tế trong năm 2024, nếu toàn bộ dự án của Tổng công ty đi vào hoạt động sẽ giúp giảm phát thải được hơn 20 nghìn tấn carbon ra môi trường.

Cổ phiếu BID của BIDV thuộc nhóm 20 cổ phiếu có chỉ số phát triển bền vững tốt nhất, khẳng định những nỗ lực không ngừng của BIDV trong việc góp sức cùng Chính phủ và các cơ quan quản lý Việt Nam để thực hiện chiến lược phát triển bền vững, đề cao tính minh bạch, trách nhiệm và kiến tạo giá trị chung cho cộng đồng.

"Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 đã đặt ra mục tiêu phát triển các công cụ tài chính xanh, tài chính bền vững, là trụ cột chính trong xây dựng thị trường vốn xanh, bền vững, góp phần huy động vốn trung và dài hạn cho các dự án năng lượng tái tạo, công nghệ sạch và các dự án bảo vệ môi trường khác", ông Tô Trần Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết. Đây là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Về thị trường trái phiếu xanh

Khoản 1 Điều 21 Nghị định 95/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 của Chính phủ quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán quy định về trái phiếu xanh như sau: Trái phiếu xanh là một loại trái phiếu chính phủ được phát hành để đầu tư cho các dự án liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường (dự án xanh) và nằm trong danh mục dự án được phân bổ vốn đầu tư công theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước. Tại Việt Nam, khung pháp lý về phát hành trái phiếu chính phủ xanh, trái phiếu chính quyền địa phương xanh và trái phiếu doanh nghiệp xanh đã được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Khung pháp lý này quy định về trái phiếu xanh, các dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh, chủ thể phát hành, quy định về sử dụng nguồn tiền thu được và chế độ công bố thông tin.

Trái phiếu xanh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững thông qua huy động vốn cho các dự án và hoạt động thân thiện với môi trường. Tại Việt Nam, thị trường trái phiếu xanh còn non trẻ nhưng đang dần được đẩy mạnh phát triển nhằm thu hút đầu tư cho các dự án năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn 2050 từ năm 2021, nhưng việc phân bổ nguồn lực cho bảo vệ môi trường vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là khi sử dụng trái phiếu xanh làm kênh huy động vốn. Nhu cầu huy động vốn từ phát hành trái phiếu xanh phục vụ cho các dự án bảo vệ môi trường là rất lớn, tuy nhiên việc phát hành trái phiếu xanh ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, theo thống kê chỉ có 19 trái phiếu xanh được phát hành từ năm 2018 đến năm 2023.

Tại Việt Nam, trên thị trường có các sản phẩm trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương phục vụ cho các dự án/công trình xanh như thủy lợi, bảo vệ môi trường, điện gió, năng lượng mặt trời…

Như vậy, tài chính xanh đang mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho các doanh nghiệp để phát triển bền vững tại Việt Nam:

Một là, tài chính xanh giúp doanh nghiệp khuyến khích đầu tư vào năng lượng sạch, cơ sở hạ tầng bền vững và các dự án kinh tế tuần hoàn. Các công ty có thể huy động vốn hỗ trợ mục tiêu bền vững của mình thông qua trái phiếu xanh, các khoản vay gắn liền với tính bền vững và các công cụ tài chính khác. Tài chính xanh mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp kết hợp các nguyên tắc môi trường vào quá trình ra quyết định đầu tư và phân bổ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, thay vì chỉ theo đuổi lợi ích tài chính ngắn hạn, các doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị bền vững cho môi trường và xã hội nói chung.

Hai là, tài chính xanh giúp các doanh nghiệp có thể nâng cao giá trị danh mục đầu tư của mình bằng cách tăng cường (và quảng bá) sự tham gia của họ vào tài chính xanh. Bằng cách hướng vốn vào các hoạt động kinh doanh bền vững, nhà đầu tư vừa có thể thúc đẩy tương lai xanh vừa có khả năng tạo ra lợi nhuận tài chính. Điều này mang lại cho doanh nghiệp một lợi thế xanh, thu hút nhiều nhà đầu tư và khách hàng quan tâm đến môi trường hơn.

Ba là, tài chính xanh giúp doanh nghiệp có khả năng nâng cao giá trị thương hiệu và danh tiếng của doanh nghiệp khi đầu tư các dự án xanh một trong những yếu tố quan trọng thu hút các nhà đầu tư khi việc bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng. Từ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tạo động lực cho sự tăng trưởng bền vững nền kinh tế Việt Nam.

Bốn là, tài chính xanh giúp các doanh nghiệp tiên phong phát triển mạnh mẽ bằng cách nắm bắt các cơ hội mới và tận dụng chúng như chất xúc tác cho sự tăng trưởng trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đầy biến động. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã triển khai thành công chiến lược bền vững, tiếp cận được nguồn vốn xanh từ các tổ chức tài chính quốc tế.

Tài chính xanh là lĩnh vực đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, được coi là chìa khóa để giải quyết các vấn đề về môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững. Tuy nhiên, tài chính xanh tại Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại các thách thức:

Khung pháp lý về tài chính xanh của Việt Nam còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ. Đồng thời chưa có quy định quốc gia về tiêu chí, danh mục dự án xanh trong các ngành, lĩnh vực, làm cơ sở để các TCTD xác định cho vay xanh.

Đối với tín dụng xanh, cần sớm ban hành quy định, định nghĩa, tiêu chuẩn về các loại hình, lĩnh vực dự án xanh để áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Về nguyên tắc, khách hàng đủ điều kiện vay tín dụng xanh được hưởng chính sách tín dụng ưu đãi, đặc biệt là về lãi suất. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có quy định rõ ràng về hỗ trợ lãi suất, điều kiện vay đối với các dự án này. Và thực tế hiện nay, các ngân hàng cho vay lĩnh vực bảo vệ môi trường và trái phiếu xanh chưa phát triển rộng rãi.

Đối với trái phiếu xanh, cần tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh. Xây dựng chính sách để nhà đầu tư có thể theo dõi việc sử dụng vốn của mình vào những dự án xanh thông qua đánh giá minh bạch, khách quan báo cáo sử dụng vốn trái phiếu xanh do các tổ chức chuyên ngành thực hiện.

Chi phí phát hành trái phiếu xanh cũng là một thách thức, chi phí tư vấn, xếp hạng tín nhiệm và chứng nhận dự án xanh còn cao, làm giảm động lực phát hành. Đồng thời, các vấn đề cấu trúc thị trường như dịch vụ xếp hạng tín dụng, sàn giao dịch chưa phát triển và thiếu bộ khung quy định cùng sự tham gia hạn chế của nhiều nhà đầu tư dẫn đến hầu hết các đợt phát hành đều phải tìm đến nước ngoài hoặc có sự hỗ trợ tài chính từ tổ chức nước ngoài.

Với hơn 96% doanh nghiệp tại Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), việc chuyển đổi trong cộng đồng doanh nghiệp sẽ gặp nhiều thách thức. Với các doanh nghiệp vừa và lớn, nhận thức về phát triển bền vững tương đối đầy đủ, nhưng khu vực SMEs vẫn có tư duy coi phát triển bền vững là một gánh nặng, chưa coi đó là sự đầu tư lâu dài cho phát triển trường tồn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những hạn chế về nhân lực, tiếp cận nguồn vốn khiến việc chuyển đổi mô hình xanh chưa được doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn.

3. Giải pháp phát triển tài chính xanh cho doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy dòng vốn xanh là yếu tố then chốt để hiện thực hóa chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững quốc gia của Việt Nam. Để phát triển thị trường tài chính xanh cho doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới, một số giải pháp được đề xuất như sau:

Một là, Chính phủ cần xây dựng và thiết lập khung chính sách tài chính xanh tích hợp, bao gồm tín dụng, tái cấp vốn, chính sách tài khóa và tài chính cho khu vực tư nhân, ngân hàng và tài chính xanh, cũng như thị trường vốn để chuyển dòng vốn vào nền kinh tế xanh và các chương trình biến đổi khí hậu. Việt Nam đã xây dựng chiến lược và thành lập ban chỉ đạo quốc gia để tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cần xây dựng khung chính sách, công cụ và sản phẩm tài chính xanh để dòng vốn được phân luồng phù hợp và đầy đủ.

Hai là, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để thực hiện các quy định một cách hiệu quả và nhất quán, cần phải nâng cao năng lực và kiến thức của các nhà hoạch định chính sách và những bên liên quan về các sản phẩm tài chính xanh, đồng thời tạo ra một môi trường đủ thuận lợi cho các chủ thể phát hành, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư và phát triển dự án tài chính xanh.

Ba là, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cần xây dựng theo hướng tăng cường nỗ lực khí hậu, thúc đẩy đầu tư xanh, giảm dần hoặc loại bỏ về thuế, phí hay ưu đãi thuế, phí đối với những ngành, nghề, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro môi trường, tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước hình thành một hệ sinh thái kinh tế xanh toàn diện.

Bốn là, NHNN sớm ban hành các văn bản, hướng dẫn cụ thể nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy nguồn tài chính xanh. NHNN cần rà soát những quy định về tín dụng xanh theo hướng cụ thể và tăng cường các yếu tố tạo động lực cho các TCTD khi cung cấp tín dụng xanh. Hệ thống các NHTM cần cam kết đồng hành cùng khách hàng trong quá trình chuyển đổi sang mục tiêu phát triển bền vững; xây dựng danh mục sản phẩm toàn diện từ huy động vốn, tín dụng xanh, triển khai gói tài chính xanh với lãi suất và phí ưu đãi cho các dự án mang lại lợi ích về môi trường và xã hội.

Năm là, các doanh nghiệp cần chủ động thực hành quản trị xanh, hướng tới việc tạo ra các sản phẩm có tác động đến xã hội cũng như môi trường. Doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận nguồn tín dụng xanh từ các định chế tài chính trong nước và quốc tế, lãnh đạo doanh nghiệp rất linh hoạt đổi mới tư duy, chủ động tìm kiếm các nguồn tài chính xanh trên thị trường.

Tài chính xanh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững bằng cách huy động nguồn tài chính cho các dự án bền vững về mặt môi trường ở mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, phát triển tài chính xanh là một trong những định hướng được Nhà nước, Chính phủ đề ra nhằm thúc đẩy các dự án bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất xanh trong doanh nghiệp, qua đó giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược trong việc xanh hóa hoạt động kinh doanh, đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh và tăng cường trách nhiệm xã hội. Điều này vừa tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp, vừa hướng tới mục tiêu chung của xã hội là phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

ThS. Nguyễn Phan Yến Phương
Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Xem thêm
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô