Tác động của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Nghiên cứu - Trao đổi
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là một khía cạnh quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng trong thời đại kỉ nguyên số. Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 544 khách hàng ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nhằm làm sáng tỏ tác động của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng. Kết quả phân tích từ mô hình cấu trúc bình phương tối thiểu riêng phần (PLS-SEM) cho thấy, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến sự hài lòng của khách hàng.
aa

Tóm tắt: Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là một khía cạnh quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng trong thời đại kỉ nguyên số. Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 544 khách hàng ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nhằm làm sáng tỏ tác động của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng. Kết quả phân tích từ mô hình cấu trúc bình phương tối thiểu riêng phần (PLS-SEM) cho thấy, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến sự hài lòng của khách hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử được đo lường bởi bốn khía cạnh gồm: Tính hiệu quả, độ tin cậy, tính bảo mật và khả năng phản hồi. Từ đó, hàm ý quản trị được thảo luận để nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm gia tăng sự hài lòng của khách hàng trong thời gian tới.


Từ khóa: Dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng thương mại (NHTM), sự hài lòng.

IMPACT OF E-BANKING SERVICES QUALITY ON CUSTOMER SATISFACTION IN MEKONG DELTA

Abstract: Developing e-banking services is an essential aspect of the banking business in the digital age. The study surveyed 544 customers in the Mekong Delta region to elucidate the impact of e-banking services quality on customer satisfaction. The analysis results from the partial least squares structural equation model (PLS-SEM) show that e-banking services quality positively impacts customer satisfaction. Besides, the quality of e-banking services is measured by 4 aspects including efficiency, reliability, security, and responsiveness. Since then, governance implications have been discussed to improve the quality of e-banking services in order to increase customer satisfaction in the coming time.

Keywords: E-banking services, commercial bank, satisfaction.

1. Giới thiệu

Ngày nay, công nghệ thông tin và Internet đã giúp các ngân hàng xây dựng chiến lược phân phối tích hợp đa kênh hiệu quả mang tính toàn cầu từ truyền thông, tiếp thị, bán hàng, chăm sóc khách hàng và cung cấp dịch vụ... Dịch vụ ngân hàng điện tử được xem là xu hướng tất yếu và là lợi thế cạnh tranh của các NHTM trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, số lượng người sử dụng Internet ngày càng tăng đã tạo cơ hội cho ngành Ngân hàng phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử. Theo trang tổng hợp và cung cấp miễn phí các báo cáo Digital Marketing trên toàn thế giới (Datareportal.com), Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet vào đầu năm 2023, chiếm tỉ lệ 79,1% tổng dân số. Điều này đã làm thay đổi hành vi tiêu dùng của khách hàng từ cách thức tìm kiếm thông tin, lập kế hoạch, đăng kí và sử dụng dịch vụ đến đánh giá dịch vụ.

Tuy nhiên, khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, khách hàng thường lo sợ về việc bảo mật thông tin cá nhân. Vì thế, đối với dịch vụ ngân hàng điện tử, làm hài lòng khách hàng luôn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh, giúp các NHTM giữ chân khách hàng cũ, thu hút khách hàng tiềm năng, góp phần tăng trưởng doanh thu dịch vụ và đạt lợi thế cạnh tranh.

Tại Hội nghị công bố Quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL thời kì 2021 - 2030 với chủ đề “Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới” được tổ chức vào ngày 21/6/2022, tại thành phố Cần Thơ, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh, vùng ĐBSCL có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Trên phương diện kinh tế, việc phát triển hệ thống NHTM nói chung cũng như dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng sẽ mang lại lợi ích cho cả khách hàng, ngân hàng và các tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL, từ đó góp phần thúc đẩy và hỗ trợ phát triển kinh tế khu vực trong tương lai.

Bên cạnh đó, theo hiểu biết của nhóm tác giả, các nghiên cứu về đo lường chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đã được thực hiện ở một số khu vực, quốc gia trên thế giới, nhưng chưa có nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và sự hài lòng của khách hàng được nghiên cứu thực nghiệm tại khu vực ĐBSCL. Do đó, nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng đối với chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử là thiết thực đối với các NHTM khu vực ĐBSCL nói riêng và ngành Ngân hàng nói chung. Bài viết tập trung nghiên cứu tác động của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng; đồng thời xác định các khía cạnh đo lường khái niệm chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp cải tiến chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM trong thời gian tới.

2. Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

2.1. Tổng quan nghiên cứu

2.1.1. Dịch vụ ngân hàng điện tử

Hiện nay, có nhiều định nghĩa về dịch vụ ngân hàng điện tử, tuy nhiên các khái niệm này cũng không có sự khác biệt lớn. Dịch vụ ngân hàng điện tử là một loạt các kênh điện tử để thực hiện các giao dịch ngân hàng thông qua Internet, điện thoại di động và máy tính (Lustsik, 2004). Hay dịch vụ ngân hàng điện tử là các giao dịch điện tử giữa ngân hàng với khách hàng mà khách hàng không cần phải đến ngân hàng để thực hiện các giao dịch (Kayabaşı và cộng sự, 2013). Theo đó, ngân hàng sẽ cung cấp các dịch vụ khác nhau thông qua các ứng dụng điện tử, cho phép khách hàng truy cập các dịch vụ ngân hàng mà không cần sự can thiệp của bên thứ ba.

Do đó, dịch vụ ngân hàng điện tử góp phần nâng cao khả năng tự phục vụ của khách hàng, giúp loại bỏ các hạn chế về thời gian và không gian trong việc thực hiện các hoạt động ngân hàng, đảm bảo sự thoải mái và tiện ích cho khách hàng (Hu và Liao, 2011). Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng điện tử giúp các ngân hàng cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn với thời gian xử lí nhanh hơn, hiệu quả hơn, góp phần cải thiện tính linh hoạt của các giao dịch và giảm chi phí nhân sự (Adesina và Ayo, 2010).

2.1.2. Sự hài lòng của khách hàng

Sự hài lòng là thái độ tổng thể của khách hàng đối với một nhà cung cấp dịch vụ hoặc cảm xúc phản ứng với sự khác biệt giữa những gì khách hàng dự đoán trước và những gì họ tiếp nhận đối với sự đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hay mong muốn (Hansemark và Albinsson, 2004). Hay sự hài lòng là phản ứng thỏa mãn của người tiêu dùng đối với dịch vụ nào đó (Fang và cộng sự, 2014).

Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ, tích cực giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và sự hài lòng của khách hàng, từ đó khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử nhiều hơn (Asiyanbi và Ishola, 2018; Ayo và cộng sự, 2016; Hammoud và cộng sự, 2018). Sự hài lòng của khách hàng có tác động tích cực đến lòng trung thành và khi ấy lòng trung thành sẽ có tác động tích cực đến hành vi sử dụng dịch vụ nhiều hơn trong tương lai, với khả năng trung thành cao hơn (Giao và cộng sự, 2020; Suariedewi, 2020; Ul và Awan, 2020).

2.1.3. Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và các khía cạnh đo lường sự hài lòng đối với chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử

Chất lượng dịch vụ điện tử là sự đánh giá tổng thể và nhận xét chung của khách hàng về quá trình cung ứng dịch vụ điện tử trên thị trường tài chính (Santos, 2003). Hiện nay, nhiều nghiên cứu đề cập đến các thuộc tính nổi bật của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử. Kayabaşı và cộng sự (2013) cho rằng, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử gồm bốn khía cạnh: Phản hồi, dễ sử dụng, danh mục sản phẩm và bảo mật. Theo Trần Đức Thắng (2015), chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử thể hiện sự đánh giá tổng hợp của khách hàng về dịch vụ ngân hàng điện tử qua ba khía cạnh: Chất lượng dịch vụ khách hàng trực tuyến, chất lượng hệ thống thông tin trực tuyến và chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Hammoud và cộng sự (2018) xác định bốn khía cạnh ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử: Hiệu quả và dễ sử dụng, sự tin cậy, phản hồi và cộng đồng, tính bảo mật và tính riêng tư.

Theo Parasuraman và cộng sự (1985), tính hiệu quả của dịch vụ được thể hiện qua tốc độ thực hiện và xử lí các giao dịch ngân hàng điện tử. Đây là một trong những yếu tố quyết định mức độ hài lòng của khách hàng. Thông thường, khi tốc độ xử lí, phản hồi chậm trong các giao dịch điện tử sẽ dẫn đến việc cung cấp dịch vụ bị chậm trễ và khiến khách hàng không chắc chắn về việc liệu giao dịch có được hoàn thành hay không (Jun và Cai, 2001). Do đó, tốc độ giao dịch có tác động tích cực đến sự hài lòng và cũng ảnh hưởng đến lòng trung thành của khách hàng (Chaudhry và cộng sự, 2009). Điều này cũng được khẳng định trong nhiều nghiên cứu, kết quả cho thấy, tốc độ xử lí giao dịch nhanh sẽ làm gia tăng sự hài lòng của khách hàng (Ahmad và Al-Zu’bi, 2011; Khadem và Mousavi, 2013; Wirtz và Bateson, 1995). Bên cạnh đó, tính hiệu quả của dịch vụ còn được thể hiện qua tính dễ sử dụng. Vì thế, các ngân hàng đã không ngừng nỗ lực để cung cấp các dịch vụ dễ sử dụng, dễ tương tác nhằm giảm thiểu thời gian giao dịch trực tuyến cho khách hàng (Hussien và Abd El Aziz, 2013; Sikdar và Makkad, 2015).

Cùng với tính hiệu quả thì độ tin cậy cũng là một trong những tiêu chí quan trọng mà khách hàng đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử (Liao và Cheung, 2008). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng độ tin cậy là một trong các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử (Hussien và Abd El Aziz, 2013; Kettinger và Lee, 2005; Shah, 2010). Trong một nghiên cứu gần đây, kết quả cho thấy độ tin cậy là một trong các yếu tố được chứng minh làm tăng sự hài lòng của khách hàng với dịch vụ ngân hàng điện tử, đặc biệt là trong giai đoạn dịch Covid-19 (Ul và Awan, 2020).

Ngoài ra, tính bảo mật, an toàn cho thông tin tài chính và thông tin cá nhân của khách hàng cũng là một yếu tố được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm (Hussien và Abd El Aziz, 2013; Kimery và McCord, 2002; Miyazaki và Krishnamurthy, 2002). Đối với dịch vụ ngân hàng điện tử, mọi giao dịch như vấn tin số dư tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn… đều có thể thực hiện trên nền tảng Internet với các thiết bị điện tử như máy tính xách tay, điện thoại thông minh... Do đó, tính bảo mật đóng vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử. Điều này cũng được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm sau này, kết quả cho thấy tính bảo mật, riêng tư là một yếu tố có ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng trong quá trình sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử (R. Agarwal và cộng sự, 2009; Ahmad và Al-Zu’bi, 2011; Datta, 2010; Shankar và Jebarajakirthy, 2019; Ul và Awan, 2020).

Một yếu tố khác cũng được chỉ ra rằng, có ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của khách hàng, đó là khả năng phản hồi (Hussien và Abd El Aziz, 2013; Madu và Madu, 2002; Sathiyavany và Shivany, 2018; Shah, 2010). Khả năng phản hồi là sự sẵn lòng và sẵn sàng hỗ trợ, cung cấp dịch vụ nhanh chóng cho khách hàng. Khả năng phản hồi là yếu tố cần thiết để ngân hàng thu hút nhiều khách hàng và có được thành công lâu dài (Sathiyavany và Shivany, 2018). Khả năng phản hồi được thể hiện qua bốn nội dung:

(i) Hệ thống ngân hàng điện tử có thể kiểm soát và vận hành dịch vụ một cách hợp lí; (ii) Các kênh ngân hàng điện tử có thể hướng dẫn khách hàng tiến hành đúng cách trong trường hợp có bất kì hoạt động nào không thành công; (iii) Khả năng phản hồi cũng có thể bao gồm một giải pháp nhanh chóng cho bất kì lỗi nào có thể xảy ra trong các giao dịch ngân hàng điện tử; (iv) Khả năng phản hồi trực tiếp các câu hỏi, thắc mắc của khách hàng (Hammoud và cộng sự, 2018). Kết quả của nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, khả năng phản hồi của dịch vụ ngân hàng điện tử là yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của khách hàng (Al-Hawary và Al-Smeran, 2017; Hammoud và cộng sự, 2018; Kayabaşı và cộng sự, 2013; Long và cộng sự, 2017; Quang và Thịnh, 2020).

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng mô hình PLS-SEM bậc hai dạng kết quả để kiểm định giả thuyết nghiên cứu thông qua phần mềm SmartPLS. Mô hình PLS-SEM là một giải pháp phù hợp có thể khắc phục một số hạn chế của các mô hình truyền thống trong việc khắc phục các sai số đo lường của biến và cho phép ước lượng tham số chi tiết của những phương sai. (Hình 1)

Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất


Nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng dựa trên mô hình nghiên cứu của Hammoud và cộng sự (2018). Trong đó, biến Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử (QUA - Quality) là biến bậc hai, được đo lường bằng 4 biến bậc 1, bao gồm: Tính hiệu quả (EFF - Efficiency); Độ tin cậy (REL - Reliability); Tính bảo mật (SEC - Security) và Khả năng phản hồi (RES - Responsiveness) với giả thuyết rằng chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tác động tích cực đến sự hài lòng của khách hàng.

2.2.2. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp thông qua bảng hỏi cấu trúc với đối tượng khảo sát là những khách hàng cá nhân đã và đang sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của các NHTM ở khu vực ĐBSCL. Thời gian khảo sát từ tháng 01/2023 đến tháng 3/2023.

Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện bằng cách kết hợp phỏng vấn trực tiếp và gửi form khảo sát trực tuyến thông qua biểu mẫu của Google đến người thân, đồng nghiệp và sinh viên… Điều này cho phép sự tham gia đa dạng của đáp viên, tăng tỉ lệ tham gia khảo sát và góp phần tăng tính đại diện cho tổng thể. Nghiên cứu chọn 06 tỉnh có tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cao trong khu vực ĐBSCL là các tỉnh Long An, Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang và Hậu Giang để tiến hành thực hiện khảo sát.

Cỡ mẫu của nghiên cứu được xác định thông qua quy tắc N:q, quy tắc được sử dụng phổ biến trong mô hình SEM (Jackson, 2003). Theo đó, tác giả đề nghị cỡ mẫu tối thiểu cần thiết sẽ dựa trên tỉ lệ quan sát (N) trên mỗi tham số được ước lượng (q). Một mẫu tối thiểu lí tưởng sẽ có tỉ lệ N:q là 20:1. Nghiên cứu bao gồm 26 tham số ước lượng nên cỡ mẫu tối thiểu lí tưởng là 26 x 20 = 520 quan sát. Sau khi tiến hành sàng lọc phiếu khảo sát kết hợp với kết quả từ form khảo sát, nghiên cứu thu thập được 544 quan sát hợp lệ.

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.1. Đặc điểm mẫu khảo sát

Bằng cách kết hợp phát phiếu trực tiếp và khảo sát trực tuyến qua Google form, nghiên cứu đã thu thập được dữ liệu bao gồm 544 quan sát. Thông tin chung của đáp viên được mô tả ở Bảng 1.

Bảng 1: Đặc điểm mẫu khảo sát

Nguồn: Ước lượng từ mô hình nghiên cứu

Bảng 1 cho thấy, đối tượng trả lời khảo sát là khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của các NHTM ở khu vực ĐBSCL. Trong đó, nam đáp viên chiếm 44,3% và nữ đáp viên chiếm 55,7% mẫu. Phần lớn những người được hỏi tương đối trẻ với 41,2% dưới 25 tuổi và 32,9% từ 25 đến 40 tuổi, trong khi khách hàng trên 40 tuổi chỉ chiếm 25,9% trong mẫu khảo sát. Điều này cho thấy các dịch vụ ngân hàng điện tử của các NHTM được thế hệ trẻ (gen Z) đặc biệt quan tâm và sử dụng vì đây là nhóm khách hàng rất năng động và luôn theo kịp với xu hướng. Hầu hết những người được hỏi đều có trình độ đại học với 78,3% và 16,5% có trình độ sau đại học, còn lại đáp viên có trình độ cao đẳng trở xuống chỉ chiếm 5,2%. Đáp viên có trình độ đại học trở lên là một yếu tố tích cực đối với việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử do họ dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ và ít gặp khó khăn trong quá trình thực hiện các giao dịch online.

Hầu hết những người được hỏi (64,6%) có thu nhập hằng tháng dưới 7 triệu đồng, 24,6% có thu nhập từ 7 đến 15 triệu đồng/tháng và chỉ 10,8% đáp viên có thu nhập hằng tháng trên 15 triệu đồng. Về thời gian sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, đa số đáp viên (76,3%) sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử từ 01 năm trở lên và 23,7% khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử dưới 01 năm. Bên cạnh đó, tần suất sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử trong tháng của khách hàng từ 05 lần trở lên chiếm tỉ trọng cao với 71,1%. Điều này cho thấy những chuyển biến tích cực trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng số của các NHTM. Các dịch vụ ngân hàng điện tử đã được nhiều đối tượng khách hàng quan tâm, tìm hiểu và sử dụng. Bên cạnh đó, trong 2 năm trở lại đây do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tỉ trọng các giao dịch được thực hiện qua dịch vụ ngân hàng điện tử gia tăng đáng kể.

Bên cạnh đó, khi được hỏi về các giao dịch trong quá trình sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tại các NHTM, kết quả khảo sát cho thấy các giao dịch chuyển tiền, nạp tiền điện thoại, data 3G và dịch vụ thanh toán (điện, nước, Internet, mua sắm…) chiếm tỉ lệ cao nhất, lần lượt là 98,3%, 90,8% và 73%. Ngoài ra, các giao dịch như mở tài khoản, gửi tiết kiệm online và thanh toán phí bảo hiểm định kì cũng được khách hàng lựa chọn khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử.

Bảng 2: Kiểm định sự khác biệt giữa nhóm khách hàng

ở thành thị và nông thôn

Nguồn: Ước lượng từ mô hình nghiên cứu


Bảng 2 cho thấy, không có sự khác biệt về sự hài lòng đối với dịch vụ ngân hàng điện tử giữa các khách hàng sống ở thành thị và nông thôn. Hiện nay, nước ta rất chú trọng phát triển mạnh cơ sở hạ tầng để việc trải nghiệm, tiếp cận thông tin trên Internet của người dân được nhanh chóng và thông suốt, đảm bảo từ thành thị đến nông thôn, hạ tầng viễn thông băng rộng triển khai mạnh. Do đó, người dân ở nông thôn vẫn có điều kiện tiếp cận rộng rãi thông tin trên Internet cũng như các dịch vụ ngân hàng điện tử của các NHTM.

Bảng 3: Kiểm định sự khác biệt giữa nhóm khách hàng

sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của NHTM

do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ và NHTM cổ phần khác

Nguồn: Ước lượng từ mô hình nghiên cứu


Bảng 3 cho thấy, không có sự khác biệt về sự hài lòng đối với dịch vụ ngân hàng điện tử giữa các khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của NHTM do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ và các NHTM cổ phần khác. Điều này cho thấy, các dịch vụ ngân hàng điện tử luôn được các NHTM quan tâm phát triển vì đây là xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Thật vậy, ngân hàng điện tử không chỉ mang lại ích lợi cho khách hàng mà bản thân các ngân hàng khi xây dựng và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử cũng nhận lại rất nhiều lợi ích. Nhờ đó, ngân hàng tiết kiệm được một phần chi phí vận hành như chi phí nhân sự, mặt bằng… từ đó góp phần tăng doanh thu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

3.2. Đánh giá chất lượng biến bậc một (Bảng 4)

Bảng 4: Hệ số Outer Loading của biến bậc 1

Nguồn: Kết quả phân tích PLS-SEM, 2023

Kết quả cho thấy, hệ số Outer Loadings của hầu hết các biến bậc một đều lớn hơn 0,7, như vậy các biến bậc một đều có ý nghĩa trong mô hình (Hair và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, biến quan sát RES1 bị loại bỏ và phân tích lại mô hình nghiên cứu do hệ số Outer Loadings chưa đảm bảo (0,245 < 0,7). (Bảng 5)

Bảng 5: Mối quan hệ giữa biến bậc 1 và biến bậc 2


Nguồn: Kết quả phân tích PLS-SEM, 2023

Kết quả phân tích cho thấy p-value Outer Weights của RES (Khả năng phản hồi), REL (Độ tin cậy), SEC (Tính bảo mật) và EFF (Tính hiệu quả) đều nhỏ hơn 0,05, do đó, bốn biến bậc một trong mô hình đều có ý nghĩa trong việc đo lường biến bậc hai (QUA - Chất lượng dịch vụ). Trong đó, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử được đo lường nhiều nhất bởi độ tin cậy (0,799), khả năng phản hồi (0,764), tính bảo mật (0,749) và cuối cùng tính hiệu quả (0,719) là khía cạnh đo lường ít nhất cho khái niệm chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử. Kết quả này hoàn toàn tương đồng với các nghiên cứu trước đây (Al-Hawary và Al-Smeran, 2017; Hammoud và cộng sự, 2018; Shankar và Jebarajakirthy, 2019; Ul và Awan, 2020).

3.3. Đánh giá độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân biệt

Bảng 6: Đánh giá độ tin cậy, tính hội tụ

Nguồn: Kết quả phân tích PLS-SEM, 2023

Kết quả phân tích từ Bảng 6 cho thấy, các biến bậc một bao gồm EFF, RES, REL, SEC và biến bậc hai QUA đều có độ tin cậy và độ hội tụ cao khi các chỉ số Cronbach’s Alpha, CR đều lớn hơn 0,7 và giá trị AVE lớn hơn 0,5 (Hair và cộng sự, 2016).

Kết quả thực hiện tiến trình khởi động 5.000 lần từ Bảng 7 cho thấy khoảng tin cậy 95% của các chỉ số HTMT đều nhỏ hơn 1. Vì vậy, mô hình đo lường của nghiên cứu đạt được mức độ chính xác về sự phân biệt (Henseler và cộng sự, 2015).

Bảng 7: Chỉ số tương quan HTMT

Nguồn: Kết quả phân tích PLS-SEM, 2023

3.4. Đánh giá mô hình cấu trúc (Hình 2)

Hình 2: Mô hình phân tích PLS-SEM



Bảng 8: Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ

và sự hài lòng của khách hàng



Nguồn: Kết quả phân tích PLS-SEM, 2023

Bảng 8 cho thấy, giá trị p-value bằng 0,000 nhỏ hơn 0,05 và hệ số đường dẫn (Path coefficient) bằng 0,722 cho thấy chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến sự hài lòng của khách hàng. Bên cạnh đó, hệ số R bình phương hiệu chỉnh của sự hài lòng bằng 0,52 cho thấy chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử giải thích được 52% sự biến thiên của sự hài lòng. Mặt khác, giá trị f2 của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử bằng 1,087 (lớn hơn 0,35) cho thấy chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tác động mạnh đến sự hài lòng của khách hàng (Cohen, 1988).


4. Kết luận và gợi ý chính sách

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến sự hài lòng của khách hàng ở khu vực ĐBSCL. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy, bốn khía cạnh có tác dụng đo lường khái niệm chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử, gồm: Tính hiệu quả, độ tin cậy, tính bảo mật và khả năng phản hồi. Vì thế, nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng điện tử trong thời gian tới, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị dựa trên các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử như sau:

Thứ nhất, đảm bảo độ tin cậy khi cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử. Các ngân hàng cần thường xuyên kiểm tra các giao dịch, tốc độ đường truyền; cập nhật những phiên bản mới về phần mềm IPCAS; cài đặt và ứng dụng công nghệ các lớp phòng vệ hiện đại để kiểm soát chặt chẽ giúp website hoạt động tốt nhằm ngăn ngừa các nguy cơ dẫn đến sai sót. Đồng thời, các NHTM cần thực hiện quản lí điện tử an toàn, các xử lí cơ bản cả phía giao dịch viên và người quản lí đều được tích hợp với Internet và các kênh phân phối khác, điều này giúp việc chia sẻ dữ liệu giữa các chi nhánh với hội sở chính diễn ra nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn, từ đó khách hàng được phục vụ tốt hơn.

Thứ hai, đảm bảo khả năng phản hồi được thực hiện nhanh và kịp thời. Đội ngũ nhân viên phụ trách tiếp nhận và phản hồi ý kiến của khách hàng về dịch vụ ngân hàng điện tử cần đảm bảo xử lí công việc nhanh chóng và kịp thời. Bên cạnh đó, các NHTM cần đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian xử lí phát sinh khiếu nại về các sự cố mà khách hàng gặp phải khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Các NHTM cần đảm bảo tốc độ truy cập, thực hiện giao dịch và phản hồi nhanh chóng, đồng thời xây dựng quy trình xử lí nghiệp vụ nhất quán, công khai quy trình trên website của ngân hàng để tránh mất thời gian chờ đợi của khách hàng.

Thứ ba, tăng cường tính bảo mật của hệ thống ngân hàng điện tử. Các NHTM cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại; các phần mềm cần được cập nhật thường xuyên, sử dụng các phương thức xác thực bảo mật nâng cao nhằm đảm bảo an toàn cho người dùng; tăng cường giám sát công tác thanh toán đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả trong giao dịch điện tử. Ngoài ra, các NHTM cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ nhân viên giỏi công nghệ, có khả năng quản trị và phòng ngừa rủi ro về an ninh mạng. Mặt khác, các NHTM phải bảo vệ thông tin cá nhân cũng như thông tin tài chính của khách hàng, tuyệt đối không chia sẻ thông tin cá nhân khách hàng với các ngân hàng hay tổ chức khác.

Thứ tư, nâng cao tính hiệu quả của dịch vụ ngân hàng điện tử. Tính hiệu quả được thể hiện qua tốc độ thực hiện, xử lí các giao dịch và tính dễ sử dụng của dịch vụ (Parasuraman và cộng sự, 1985). Do đó, các NHTM cần tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán, tăng cường áp dụng các công nghệ hiện đại nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lí các giao dịch mà vẫn đảm bảo độ chính xác. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần chú ý đến việc thiết kế giao diện của các giao dịch điện tử sao cho bắt mắt, màu sắc hài hòa, bố cục rõ ràng để khách hàng thoải mái và thuận tiện trong quá trình thực hiện các giao dịch trực tuyến.


Tài liệu tham khảo:

1. Giao, H. N. K., Vuong, B. N., & Quan, T. N. (2020). The influence of website quality on consumer’s e-loyalty through the mediating role of e-trust and e-satisfaction: An evidence from online shopping in Vietnam. Uncertain Supply Chain Management, pages 351-370, https://doi.org/10.5267/j.uscm.2019.11.004

2. Hammoud, J., Bizri, R. M., & El Baba, I. (2018). The Impact of E-Banking Service Quality on Customer Satisfaction: Evidence From the Lebanese Banking Sector. SAGE Open, 8(3), 2158244018790633, https://doi.org/10.1177/2158244018790633

3. Quang, B. N., và Thịnh, N. H. T. (2020). Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử đến sự hài lòng của khách hàng: Thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Tạp chí Khoa học Trường Đại Học Cần Thơ, 56(3), pages 194-203.

4. Sathiyavany, N., & Shivany, S. (2018). E-banking service qualities, e-customer satisfaction, and e-loyalty: A conceptual model.

5. Shankar, A., & Jebarajakirthy, C. (2019). The influence of e-banking service quality on customer loyalty: A moderated mediation approach. International Journal of Bank Marketing, 37(5), pages 1119-1142, https://doi.org/10.1108/IJBM-03-2018-0063

6. Suariedewi, I. G. A. A. M. (2020). Effect of mobile service quality to e-trust to develop e-satisfaction and e-loyalty mobile banking services. International Research Journal of Management, IT and Social Sciences, https://doi.org/10.21744/irjmis.v7n1.836

7. Toor, A. (2016). The impact of e-banking on customer satisfaction: Evidence from banking sector of Pakistan. International Journal of Trends in Business Administration, 2.

8. Ul, H. I., & Awan, T. M. (2020). Impact of e-banking service quality on e-loyalty in pandemic times through interplay of e-satisfaction. Vilakshan - XIMB Journal of Management, 17(1/2), pages 39-55, https://doi.org/10.1108/XJM-07-2020-0039

ThS. Nguyễn Thị Ánh Ngọc, ThS. Đoàn Thị Thanh Hòa, ThS. Nguyễn Thị Diễm

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Phân hiệu Vĩnh Long


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Xem thêm
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc