Tác động của các yếu tố toàn cầu đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ đại dịch Covid-19

Bài viết khoa học chuyên sâu
Bài viết này kiểm tra phản ứng của giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trước các cú sốc toàn cầu như hoạt động kinh tế thế giới, chênh lệch lợi suất trái phiếu và giá chứng khoán Mỹ trong giai đoạn từ tháng 7/2012 đến tháng 12/2021 dưới ảnh hưởng của biến ngoại sinh là số ca nhiễm Covid-19 trên toàn thế giới.
aa

Tóm tắt:

Bài viết này kiểm tra phản ứng của giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trước các cú sốc toàn cầu như hoạt động kinh tế thế giới, chênh lệch lợi suất trái phiếu và giá chứng khoán Mỹ trong giai đoạn từ tháng 7/2012 đến tháng 12/2021 dưới ảnh hưởng của biến ngoại sinh là số ca nhiễm Covid-19 trên toàn thế giới. Sử dụng mô hình vector tự hồi quy cấu trúc (SVAR) cho dữ liệu theo ngày, nghiên cứu đã tìm thấy sự phản ứng mạnh mẽ hơn của chỉ số VN-Index trước các cú sốc gây ra bởi hoạt động kinh tế toàn cầu, chênh lệch lợi suất trái phiếu và thị trường chứng khoán Mỹ dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 so với điều kiện bình thường. Cụ thể, giá cổ phiếu Việt Nam tăng gấp 1,5 lần khi có cú sốc do thị trường chứng khoán Mỹ gây ra và giảm gấp 3 lần khi xảy ra cú sốc liên quan đến chênh lệch lợi suất trái phiếu trên thị trường Mỹ dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.

Từ khóa: Covid-19, thị trường cổ phiếu, các nhân tố toàn cầu, hoạt động kinh tế thế giới.

IMPACTS OF GLOBAL FACTORS TO STOCK PRICES IN THE VIETNAMESE STOCK MARKET IN THE PANDEMIC COVID-19


Abstract:

This article examines the reaction of stock prices in the Vietnamese stock market to global shocks such as world economic activity, bond yield differentials and US stock prices in the period from July 2012 to December 2021 under the influence of the exogenous variable is the number of Covid-19 infections worldwide. Using the structural vector autoregression (SVAR) model for daily data, the study found a stronger response of the VN-Index to shocks caused by global economic activity, difference in yields on US bonds and stock markets under the influence of the Covid-19 epidemic compared to normal conditions. Specifically, Vietnamese stock prices increase 1.5 times when there is a shock caused by the US stock market and decrease 3 times when there is a shock related to the difference in bond yields in the US market under the influence of the Covid-19 epidemic.

Keywords: Covid-19, stock market, global factors, economic activities.

1. Mở đầu

Dịch bệnh Covid-19 bắt đầu xuất hiện vào tháng 12 năm 2019 tại Thành phố Vũ Hán - Trung Quốc đã nhanh chóng lây lan sang các nước lân cận và toàn thế giới trong chưa đầy một tháng, lấy đi sinh mạng của hơn 6,2 triệu người1. Sự xuất hiện của dịch bệnh này kéo theo các chiến dịch phong tỏa, cách ly, hạn chế đi lại… ở hầu hết các quốc gia, điều này tạo ra sự bất ổn đáng kể trong hoạt động kinh tế toàn cầu (Baldwin & Di Mauro, 2020) và thị trường tài chính trên toàn thế giới (Cao và cộng sự, 2021). Sau công bố đầu tiên của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về Covid-19, chỉ số S&P500 từ mốc 3370 điểm vào tháng 02/2020 rớt xuống chỉ còn 2237 điểm vào đầu tháng 03/2020, tương ứng với số ca nhiễm và tử vong tăng chóng mặt trên toàn thế giới. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của dịch bệnh và tín hiệu tiêu cực từ thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới khi chỉ số VN-Index chỉ còn ở mức 659 điểm (giảm hơn 33% so với mức chỉ số vào đầu thời điểm công bố dịch bệnh). Do đó, dù là một cuộc khủng hoảng y tế hay khủng hoảng phi kinh tế, Covid-19 đã tạo ra sự tàn phá nghiêm trọng trong hoạt động kinh tế toàn cầu cũng như trên thị trường tài chính.



Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng trở nên nhạy cảm đối với tình hình kinh tế thế giới

Tác động của thị trường chứng khoán Mỹ cũng như những biến động trong chính sách kinh tế của thế giới luôn là những yếu tố có tác động không nhỏ đến thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là thị trường cổ phiếu (Lê Hồ An Châu và cộng sự, 2018). Tuy nhiên, với sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19, sự tác động này đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là thị trường cổ phiếu, sẽ là lớn hơn hay không khi những tín hiệu thực tế cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam có những thay đổi bất ngờ với mức ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các khủng hoảng do dịch bệnh trước đây. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của đại dịch như SARS hay vi-rút Ebola…, tuy nhiên, đại dịch Covid-19 lại hoàn toàn khác biệt do tính lây lan cao, gây ra nhiều bất ổn trong nền kinh tế thực và thị trường tài chính (Albulescu, 2020). Việc xác định vai trò của dịch bệnh Covid-19 trong mối quan hệ tác động của các yếu tố toàn cầu như hoạt động kinh tế và thị trường tài chính thế giới đến thị trường chứng khoán Việt Nam là một vấn đề quan trọng không những đối với các nhà hoạch định chính sách mà còn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Bài viết này sẽ nghiên cứu phản ứng của giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam trước những cú sốc liên quan đến yếu tố toàn cầu như hoạt động kinh tế thế giới cũng như chênh lệch lợi suất trái phiếu dài hạn và thị trường chứng khoán thế giới với ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trong giai đoạn từ tháng 07/2012 đến tháng 12/2021. Mặc dù các yếu tố kinh tế khu vực và tác động lan truyền giữa các thị trường chứng khoán châu Á cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của cổ phiếu trên thị trường Việt Nam, bài viết chỉ xem xét các yếu tố toàn cầu trong nghiên cứu này.

2. Lược khảo các nghiên cứu

Ảnh hưởng của các yếu tố toàn cầu lên thị trường chứng khoán đã nhận được sự quan tâm đáng kể từ các nhà nghiên cứu hàn lâm, các nhà quản lý rủi ro danh mục đầu tư và các nhà hoạch định chính sách. Trong đó, hoạt động kinh tế toàn cầu và các yếu tố thị trường tài chính thế giới luôn là mấu chốt quan trọng. Có nhiều bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế toàn cầu và thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường cổ phiếu. Campa và Fernandes (2006) cho rằng, lợi nhuận của quốc gia phản ánh mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế quốc gia và hoạt động kinh tế toàn cầu. Bakshi và cộng sự (2010) sử dụng chỉ số BDI (Baltic Dry Index) đại diện cho hoạt động kinh tế toàn cầu và tìm thấy mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê giữa tốc độ tăng trưởng BDI với tỷ suất lợi nhuận cổ phiếu toàn cầu. Graham và cộng sự (2016) cũng cho thấy rằng sự gia tăng trong hoạt động kinh tế toàn cầu làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu ở thị trường mới nổi cao hơn. Tuy nhiên, tác giả lập luận rằng, những thay đổi trong hoạt động kinh tế toàn cầu sẽ tác động khác biệt đến lợi nhuận vốn chủ sở hữu trong khu vực, tùy thuộc vào độ mở của một quốc gia hoặc khu vực với yếu tố này.

Hoạt động kinh tế toàn cầu có thể được đại diện bởi nhiều biến số khác nhau. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu lựa chọn chỉ số BDI làm đại diện cho biến số này (Isserlis, 1938; Klovland, 2002; Qiu và cộng sự, 2012). Chỉ số BDI được Sở Giao dịch Baltic phát triển vào năm 1985 như một chỉ số chung, bao gồm chủ yếu các mặt hàng thô như ngũ cốc, than đá, quặng sắt, đồng và các nguyên liệu thô khác… Chỉ số BDI được thiết lập dựa trên giá trung bình của 23 tuyến đường vận chuyển khác nhau trên thế giới được tổng hợp hàng ngày. Kể từ khi thành lập, BDI đã trở thành một trong những chỉ số quan trọng nhất về chi phí vận chuyển và một phong vũ biểu quan trọng về khối lượng hoạt động thương mại và sản xuất trên toàn thế giới.

Các yếu tố toàn cầu khác liên quan đến thị trường tài chính thế giới, đại diện là những tác nhân đến từ quốc gia lớn nhất thế giới - Mỹ, cũng là những yếu tố gây ra ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán các nước, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. Đầu tiên, phải đề cập tới tác động lan tỏa của thị trường chứng khoán toàn cầu. Mollah và cộng sự (2016) đã kiểm tra các chỉ số hàng ngày của MSCI (Morgan Stanley Capital International) từ 55 thị trường chứng khoán bằng cách sử dụng mô hình DCC-GARCH và phát hiện ra rằng, có sự lây lan từ thị trường chứng khoán Hoa Kỳ sang một số thị trường chứng khoán khác trên thế giới trong các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khu vực đồng Euro. Naser (2016) lại tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại của tích hợp ngắn hạn giữa thị trường chứng khoán ở các nước mới nổi và các nước phát triển thông qua mô hình đồng liên kết và sửa lỗi (Dynamic Model Averaging - DMA). Sugimoto và cộng sự (2014) đã áp dụng phương pháp tiếp cận chỉ số lan tỏa và phát hiện ra rằng các thị trường chứng khoán châu Phi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi sự lan tỏa từ các thị trường chứng khoán toàn cầu.

Richards (2005) cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài và các điều kiện bên ngoài có tác động lớn hơn đến các thị trường châu Á mới nổi. Bằng cách sử dụng mô hình BEKK bất đối xứng và mô hình GARCH (Kim và cộng sự, 2015); Li và Giles (2015) cũng cho thấy sự lan tỏa cú sốc và biến động một chiều đáng kể từ thị trường Hoa Kỳ sang các thị trường châu Á mới nổi. Bên cạnh đó, kỳ vọng trong tương lai của nền kinh tế lớn nhất thế giới như Hoa Kỳ cũng ảnh hưởng đáng kể đến thị trường chứng khoán tại các nước đang phát triển. Cụ thể, khi kinh tế Mỹ phục hồi tốt và lãi suất tại Mỹ tăng, dòng vốn đầu tư có thể dịch chuyển về Mỹ và khiến cho thị trường chứng khoán các nước đang phát triển bị ảnh hưởng tiêu cực. Nghiên cứu của Petkova (2006), Chen và cộng sự (1986) cho rằng, chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu kỳ hạn 10 năm và lãi suất quỹ liên bang ở Mỹ không chỉ phản ánh phần bù kỳ hạn (giữa lãi suất dài hạn và ngắn hạn) mà còn cả những kỳ vọng trong tương lai trong nền kinh tế Mỹ.

3. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Bài viết nghiên cứu tác động của các yếu tố toàn cầu đến giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam, có xem xét đến yếu tố ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 là số ca nhiễm trên phạm vi toàn cầu. Mô hình SVAR với các biến nội sinh và ngoại sinh được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Yilmazkuday (2021). Các biến sử dụng trong mô hình bao gồm hoạt động kinh tế toàn cầu (BDI), chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm và lãi suất quỹ liên bang (SPREAD), giá chứng khoán nước ngoài (SP500), giá chứng khoán Việt Nam (VNINDEX) và số ca nhiễm Covid-19 trên thế giới (COVID19).

Mô hình SVAR của n biến viết rút gọn như sau:

• Yt: Vector (n x 1) của n biến nội sinh với Yt = (BDIt, SPREADt, SP500t, VNINDEXt)'

• A: Ma trận không suy biến (n x n) hệ số tác động cùng thời điểm của các biến nội sinh;

• βo: Vector (n x 1) của hệ số chặn;

• βi (i = 1, 2, 3…p): Ma trận (n x n) hệ số tác động của các biến nội sinh trễ;

• Yt-1: Ma trận (n x n) các biến nội sinh trễ;

• p: Số bậc trễ;

ct: ma trận (n x 1) các biến ngoại sinh với

ct = COVID19t

• ut: Vector (n x 1) sai số

Nhân hai vế của (1) với nghịch đảo của ma trận A (Aa-1), ta được:

Trong đó:


Cấu trúc của mô hình SVAR với ma trận hệ số nhân tác động cấu trúc có cấu trúc đệ quy, đồng thời thứ tự các biến nội sinh được sử dụng trong ước lượng là . Theo đó, các cú sốc lên SPREADt, SP500t và VNINDEXt không có tác động đến BDIt - là biến đại diện cho hoạt động kinh tế toàn cầu, trong khi cú sốc lên BDIt có tác động đồng thời lên cả SPREADt, SP500t và VNINDEXt. Vì mục tiêu chính của bài viết là để kiểm tra tác động của các yếu tố bên ngoài đến giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam nên VNINDEXt được xếp thứ tự cuối cùng trong khuôn khổ này.

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng ngày trong giai đoạn từ tháng 07/2012 đến tháng 12/2021. Dữ liệu hàng ngày về BDI được lấy từ trang web của Sàn Giao dịch Baltic; dữ liệu hàng ngày về Chỉ số S&P 500 và chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm và lãi suất quỹ liên bang ở Mỹ được lấy từ dữ liệu kinh tế của Cục Dự trữ Liên bang (FED Chi nhánh St. Louis); dữ liệu về giá chứng khoán Việt Nam hàng ngày được tính bằng cách lấy logarit của chỉ số VN-Index đóng cửa cuối mỗi ngày so với ngày hôm trước từ Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và dữ liệu hàng ngày về các trường hợp mắc Covid-19 trên thế giới được lấy từ website của WHO, theo đó ca nhiễm đầu tiên được phát hiện là vào ngày 23/01/2020. Với mục đích ước tính, ngoại trừ biến Covid-19 được biểu diễn dưới dạng logarit, các biến còn lại trong mô hình đều được biểu diễn với dạng phần trăm thay đổi hàng ngày để đảm bảo tính dừng.

4. Kết quả nghiên cứu

Bảng 1: Kết quả kiểm định tính dừng theo ADF test


*** Cho biết ý nghĩa thống kê ở mức 1%

Nguồn: Tác giả tính toán


Tính dừng của các biến được kiểm tra dựa trên kiểm định Augmented Dickey Fuller (ADF test). Kết quả được trình bày ở Bảng 1, theo đó chỉ có biến SPREAD dừng ở sai phân bậc 1, các biến còn lại trong mô hình đều dừng ở bậc 0. Theo kết quả này, biến SPREAD được sử dụng để ước lượng trong mô hình dưới dạng sai phân bậc 1, các biến khác là BDI, SP500, VNINDEX và COVID19 sẽ được dùng với trạng thái dữ liệu ban đầu.

Mô hình SVAR trong phương trình (2) được ước lượng với độ trễ là 8 dựa trên tiêu chuẩn AIC và SIC, thêm vào đó, với độ trễ này các mô hình đều có tính ổn định cao do giá trị nghịch đảo nghiệm đặc trưng đều nằm trong vòng tròn đơn vị.

Phản ứng của giá cổ phiếu Việt Nam đối với các cú sốc gây ra bởi yếu tố toàn cầu trước và sau khi đại dịch Covid-19 xảy ra được làm rõ thông qua hàm phản ứng đẩy. Cụ thể, tác động của các cú sốc gây ra bởi các biến BDI, SPREAD và SP500 đến biến VNINDEX khi chưa xem xét đến ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 được trình bày trong Hình 1. Theo đó, kết quả cho thấy rằng giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam đều bị tác động bởi chênh lệch lợi suất trái phiếu và thị trường chứng khoán Mỹ, nhưng không bị ảnh hưởng bởi chi phí vận tải biển. Khi có cú sốc liên quan đến chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu kì hạn 10 năm và lãi suất quỹ liên bang sẽ làm cho giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam giảm (khi SPREAD tăng 1% thì VNINDEX giảm 0,0006%), phản ứng nghịch chiều này có ý nghĩa thống kê từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 8 sau cú sốc. Kết quả nghiên cứu này là phù hợp với thực tế khi khoảng cách chênh lệch lợi suất giữa các loại trái phiếu dài hạn và lãi suất quỹ liên bang được nới rộng sẽ làm suy yếu sức mua của cổ phiếu, làm giảm sức hấp dẫn của dòng tiền đầu tư vào loại tài sản này. Thêm vào đó, đường cong lợi suất được nới rộng cũng cho thấy kỳ vọng về kinh tế Mỹ tăng trưởng cao hơn, kinh tế Mỹ phục hồi tốt. Điều này khiến dòng vốn đầu tư có thể dịch chuyển về Mỹ để tận dụng lợi thế lãi suất cao, khiến thị trường cổ phiếu Việt Nam có sự sụt giảm nhất định.


Hình 1: Phản ứng của giá cổ phiếu Việt Nam

trước các cú sốc


Ngoài ra, phản ứng tích lũy của giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam khá mạnh mẽ và cùng chiều dưới tác động của thị trường chứng khoán Mỹ. Cụ thể, khi có 1% mức tăng trên thị trường chứng khoán Mỹ dẫn đến mức tăng tích lũy khoảng 0,0011% chỉ sau 1 ngày và tăng đến 0,0021% sau 9 ngày sau khi cú sốc xảy ra. Điều này cho thấy mối tương quan khá rõ giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và thị trường chứng khoán Mỹ. Kết quả nghiên cứu này tương đồng với các nghiên cứu trước (Mollah và cộng sự, 2016; Naser, 2016).

Khi xem xét các cú sốc toàn cầu dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy phản ứng mạnh hơn một cách rõ rệt (Hình 2). Cụ thể, giá cổ phiếu Việt Nam bị tác động bởi cả 3 yếu tố đang xem xét trong mô hình là hoạt động kinh thế thế giới, chênh lệch lợi suất trái phiếu và thị trường chứng khoán Mỹ. Thêm vào đó, mức độ tác động mạnh mẽ hơn khi có sự xuất hiện của Covid-19 trên toàn thế giới, biểu hiện thông qua các ca nhiễm ngày một gia tăng.

Hình 2: Phản ứng của giá cổ phiếu Việt Nam

trước các cú sốc với ảnh hưởng của dịch Covid-19



Hoạt động kinh tế toàn cầu - đại diện bởi chi phí vận tải biển cũng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam trong thời kỳ xảy ra đại dịch Covid-19. Khi xảy ra cú sốc về chi phí vận tải biển, giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam có xu hướng tăng nhẹ, phản ứng có ý nghĩa thống kê vào ngày thứ 4 đến ngày thứ 5 sau cú sốc. Cụ thể, với 1% mức tăng trong chi phí vận tải biển làm giá cổ phiếu Việt Nam tăng cao nhất ở mức 0,0017% vào ngày thứ 4 sau khi cú sốc xảy ra. Tuy nhiên, mức tăng là không đáng kể và có khuynh hướng giảm dần. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây (Bakshi và cộng sự, 2010) khi hoạt động kinh tế toàn cầu tăng lên là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt khác, phần lớn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam tập trung vào hoạt động vận tải hàng rời, thêm vào đó, trong thời kỳ xảy ra Covid-19, các doanh nghiệp này chỉ thực sự chứng kiến xu thế tăng mạnh của giá cước từ quý 1/2021, hơn nữa một số doanh nghiệp tiếp tục ghi nhận các khoản lợi nhuận đột biến từ thanh lý tàu cũ và tái cơ cấu nợ vay tài chính nên chỉ số BDI tăng là một lợi thế phát triển đối với Việt Nam trong thời gian này.

Mức độ tác động của lãi suất và thị trường chứng khoán toàn cầu đến giá cổ phiếu Việt Nam thể hiện mạnh hơn với sự xuất hiện của Covid-19 (Hình 3). Cụ thể, một mức tăng tích lũy 1% của chênh lệch lợi suất làm giá cổ phiếu Việt Nam giảm mạnh nhất vào ngày thứ 7 ở mức 0,0019%, cao gấp 3 lần so với mức giảm 0,006% khi không có Covid-19. Bên cạnh đó, khi giá chứng khoán Mỹ tăng 1% cũng làm thị trường chứng khoán Việt Nam tăng đến 0,0018% ngay sau 1 ngày khi cú sốc xảy ra, đạt mức cao nhất ở ngày thứ 9, tại mức 0,0032% - gấp 1,5 lần so với khi không xem xét tới dịch bệnh Covid-19 trong mô hình.

Hình 3: So sánh phản ứng của giá cổ phiếu Việt Nam trước các cú sốc

(Ghi chú: Đường kẻ liền thể hiện phản ứng khi có ảnh hưởng của Covid-19)



Tóm lại, mức độ tác động của các biến số trong mô hình cao gấp từ 1,5 đến 3 lần so với khi không xem xét ảnh hưởng của Covid-19, điều này chứng tỏ rằng, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra, các biến số toàn cầu có tác động mạnh mẽ hơn đến thị trường chứng khoán Việt Nam.

5. Kết luận và hàm ý chính sách

Nghiên cứu thực hiện kiểm tra phản ứng của giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam trước các cú sốc toàn cầu trong giai đoạn từ tháng 07/2012 đến tháng 12/2021 dưới ảnh hưởng của biến ngoại sinh là số ca nhiễm Covid-19 trên toàn thế giới. Sử dụng mô hình vector tự hồi quy cấu trúc cho dữ liệu theo ngày, nghiên cứu đã tìm thấy sự phản ứng mạnh mẽ hơn của chỉ số VN-Index trước các cú sốc gây ra bởi hoạt động kinh tế toàn cầu, chênh lệch lợi suất trái phiếu và thị trường chứng khoán Mỹ dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Sự xuất hiện của dịch Covid-19 làm mức độ ảnh hưởng của giá cổ phiếu trở nên mạnh hơn khi có các cú sốc bên ngoài xảy ra. Cụ thể, giá cổ phiếu Việt Nam tăng gấp 1,5 lần khi có cú sốc do thị trường chứng khoán Mỹ xảy ra và giảm gấp 3 lần khi xảy ra cú sốc liên quan đến lợi suất trái phiếu trên thị trường này.

Kết quả nghiên cứu này đã gợi mở một số hàm ý chính sách quan trọng đối với các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), cũng như các nhà đầu tư nói chung.

Thứ nhất, phản ứng mạnh hơn của VN-Index trước các cú sốc toàn cầu cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng trở nên nhạy cảm đối với tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt là sau giai đoạn tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng chậm trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19. Chính vì vậy, NHNN cần yêu cầu các ngân hàng thương mại tăng cường tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, hạn chế mở rộng tín dụng sang những lĩnh vực tăng trưởng nóng như chứng khoán, bất động sản.

Thứ hai, giá cổ phiếu trên thị trường Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ khi chênh lệch lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ ghi nhận mức tăng cao, đặc biệt là các loại trái phiếu dài hạn. Gần đây, FED đã dừng chương trình mua tài sản. Hơn nữa, ngày 16/3/2022, FED quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 0,25% - 0,5%… để kiềm chế lạm phát. Điều này sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam khi dòng vốn tại đây không còn hấp dẫn, nhà đầu tư nên thận trọng với những tín hiệu trên thị trường chứng khoán Mỹ cũng như chính sách tiền tệ thắt chặt của nước này. Mặt khác, UBCKNN cần đưa ra các khuyến nghị hoặc quy định về hạn mức giao dịch ký quỹ của các cổ phiếu tăng trưởng nóng trên thị trường hiện nay để đảm bảo ổn định cho toàn hệ thống.

Thứ ba, hoạt động kinh tế toàn cầu cũng có ảnh hưởng nhất định đến thị trường chứng khoán Việt Nam với tín hiệu tích cực nhưng mức độ nhỏ và có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của những biến chủng SARS-CoV-2 mới, các chính sách ngăn chặn như cách ly, cấm nhập cảnh, thông quan, kiểm soát hàng hóa ra vào… vẫn được một số nước trên thế giới áp dụng chặt chẽ hơn khiến chi phí vận tải biển và các chi phí kho bãi tăng. Điều này sẽ là tín hiệu xấu đối với thị trường chứng khoán Việt Nam khi chi phí đầu vào tăng, giá nguyên liệu thô tăng nhưng không phải do nhu cầu tăng mà là do chi phí vận tải. Bên cạnh đó, việc Nga tiến hành "hoạt động quân sự đặc biệt" tại Ukraine từ 24/2/2022 đến nay, gây nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng một lần nữa, lạm phát thế giới gia tăng nhanh.Với tình hình trên, các nhà đầu tư nên thận trọng hơn khi phân bổ tài sản quá nhiều vào thị trường chứng khoán hiện nay, tránh bị lôi kéo và cuốn theo các luồng thông tin trên mạng xã hội khi mua bán cổ phiếu. Bên cạnh đó, những nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ cần phải phân tích và tìm hiểu về thị trường và các doanh nghiệp, nên phân bổ tài sản vào các cổ phiếu của doanh nghiệp có nền tảng hoạt động tốt.

1 Số liệu của WHO ngày 14/4/2022.


Tài liệu tham khảo:

1. Albulescu, C. (2020). Coronavirus and oil price crash. Available at SSRN 3553452.

2. Bakshi, G., Panayotov, G., & Skoulakis, G. (2010). The Baltic Dry Index as a predictor of global stock returns, commodity returns, and global economic activity. Commodity Returns, and Global Economic

Activity (October 1, 2010).

3. Baldwin, R., & Di Mauro, B. W. (2020). Economics in the time of Covid-19: A new eBook. VOX CEPR Policy Portal, 2-3.

4. Campa, J. M., & Fernandes, N. (2006). Sources of gains from international portfolio persification. Journal of Empirical Finance, 13(4-5), 417-443.

5. Cao, K. H., Li, Q., Liu, Y., & Woo, C.-K. (2021). Covid-19’s adverse effects on a stock market index. Applied Economics Letters, 28(14), 1157-1161.

6. Chen, N.-F., Roll, R., & Ross, S. A. (1986). Economic forces and the stock market. Journal of business, 383-403.

7. Graham, M., Peltomäki, J., & Piljak, V. (2016). Global economic activity as an explicator of emerging market equity returns. Research in International Business and Finance, 36, 424-435.

8. Isserlis, L. (1938). Tramp shipping cargoes, and freights. Journal of the Royal Statistical Society, 101(1), 53-146.

9. Kim, B.-H., Kim, H., & Lee, B.-S. (2015). Spillover effects of the US financial crisis on financial markets in emerging Asian countries. International Review of Economics & Finance, 39, 192-210.

10. Klovland, J. T. (2002). Business cycles, commodity prices and shipping freight rates: Some evidence from the pre-WWI period.

11. Lê Hồ An Châu, Ngô Sỹ Nam, & Nguyễn Thị Mai Huyên. (2018). Phản ứng của giá cổ phiếu đối với biến động chính sách kinh tế thế giới và chính sách tiền tệ tại Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 29(3), 05-22.

12. Li, Y., & Giles, D. E. (2015). Modelling volatility spillover effects between developed stock markets and Asian emerging stock markets. International Journal of Finance & Economics, 20(2), 155-177.

13. Mollah, S., Quoreshi, A. S., & Zafirov, G. (2016). Equity market contagion during global financial and Eurozone crises: Evidence from a dynamic correlation analysis. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 41, 151-167.

14. Naser, H. (2016). Estimating and forecasting the real prices of crude oil: A data rich model using a dynamic model averaging (DMA) approach. Energy Economics, 56, 75-87.

15. Petkova, R. (2006). Do the Fama-French factors proxy for innovations in predictive variables? The journal of Finance, 61(2), 581-612.

16. Qiu, C., Colson, G., Escalante, C., & Wetzstein, M. (2012). Considering macroeconomic indicators in the food before fuel nexus. Energy Economics, 34(6), 2021-2028.

17. Richards, A. (2005). Big fish in small ponds: The trading behavior and price impact of foreign

investors in Asian emerging equity markets. Journal of Financial and quantitative Analysis, 40(1), 1-27.

18. Sugimoto, K., Matsuki, T., & Yoshida, Y. (2014). The global financial crisis: An analysis of the spillover effects on African stock markets. Emerging Markets Review, 21, 201-233.

19. Yilmazkuday, H. (2021). COVID-19 effects on the S&P 500 index. Applied Economics Letters, 1-7.


ThS. Nguyễn Thị Mai Huyên
ThS. Ngô Sỹ Nam

Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tín dụng xanh là một trong những trụ cột quan trọng của hệ thống tài chính xanh. Thời gian qua, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Tuy được ghi nhận có sự tăng trưởng đều qua các năm nhưng số lượng lĩnh vực đầu tư xanh cũng như tỉ trọng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần có nghiên cứu chuyên sâu về phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam.
Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Dự đoán xu hướng sử dụng công nghệ mới của người dùng thông qua chỉ số sẵn sàng công nghệ

Những năm gần đây, với sự chuyển đổi số mạnh mẽ và sự phát triển không ngừng của các công nghệ tiên tiến, việc đo lường mức độ chấp nhận và sử dụng công nghệ mới của người dùng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự sẵn sàng áp dụng công nghệ của một cá nhân sẽ phản ánh khuynh hướng chấp nhận công nghệ của họ trong các hoạt động thường ngày. Để đánh giá chính xác xu hướng này, Chỉ số sẵn sàng công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích, giúp đo lường tâm lý, thái độ và hành vi của người dùng đối với các ứng dụng công nghệ. Từ đó, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ của các đối tượng mục tiêu, cũng như dự báo xu hướng phát triển của thị trường.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng của sinh viên

Để đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng các nền tảng cho vay ngang hàng, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính. Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước: Thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc gửi phiếu khảo sát dưới hình thức online đến sinh viên các trường đại học.
Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Giải pháp cho quyền tiếp cận đất đai của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều bất cập do những hạn chế về pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp, thời hạn sử dụng đất ngắn và thiếu sự minh bạch trong quản lý đất đai. Các rào cản này không chỉ làm giảm sức hút của môi trường đầu tư Việt Nam mà còn cản trở sự phát triển bền vững của các dự án FDI. Để nâng cao hiệu quả quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp...
Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Ứng dụng sinh trắc học trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, góp phần hiện đại hóa hoạt động, nâng cao trải nghiệm khách hàng và bảo đảm an toàn giao dịch. Các công nghệ sinh trắc học phổ biến như nhận diện khuôn mặt, quét vân tay, mống mắt hay xác thực giọng nói... không chỉ cải thiện quy trình vận hành mà còn gia tăng mức độ tin cậy trong các giao dịch tài chính.
Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Tính độc lập của thư tín dụng và ngoại lệ gian lận: Thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia và đề xuất cho Việt Nam

Phương thức thanh toán bằng L/C được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Phương thức thanh toán này giúp các bên giảm thiểu rủi ro do khoảng cách về địa lý và sự khác biệt của pháp luật giữa các quốc gia.
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc