Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số - Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện

Nghiên cứu - Trao đổi
Rửa tiền là một hành vi phạm tội nguy hiểm, phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế và đẩy lùi sự phát triển của quốc gia. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các hành vi rửa tiền càng trở nên tinh vi và phức tạp. Điều này đòi hỏi cần phải có những biện pháp hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp pháp lý để kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền.
aa

Tóm tắt: Rửa tiền là một hành vi phạm tội nguy hiểm, phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế và đẩy lùi sự phát triển của quốc gia. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các hành vi rửa tiền càng trở nên tinh vi và phức tạp. Điều này đòi hỏi cần phải có những biện pháp hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp pháp lý để kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền. Bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá những vấn đề thực trạng bất cập trong quy định và thực thi pháp luật điều chỉnh về phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số; từ đó, đưa ra một số đề xuất,

kiến nghị.


Từ khóa: Rửa tiền, phòng chống rửa tiền, nền kinh tế số, pháp lý.

LAW ON PREVENTION OF MONEY LAUNDERING IN THE DIGITAL ECONOMY - CURRENT SITUATION AND RECOMMENDATIONS FOR COMPLETION

Abstract: Money laundering is a dangerous crime that seriously undermines the economy and prevents the development of a country. Currently, with the strong development of the fourth industrial revolution, money laundering activities are becoming more sophisticated and complex, this requires effective measures, especially legal measures to control, prevent and timely handle money laundering activities. From there, the article focuses on researching, analyzing and evaluating the problems of inadequacies in regulations and law enforcement to control these money laundering activities in the digital economy and thereby offering recommendations.


Keywords: Money laundering, anti-money laundering, digital economy, legal.


1. Đặt vấn đề

Rửa tiền là một vấn nạn toàn cầu, điều này không chỉ đe dọa an ninh của quốc gia mà còn phá hủy sự ổn định, minh bạch và hiệu quả của hệ thống tài chính cũng như cản trở sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc tế. Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống nạn rửa tiền là một lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên coi trọng. Nhận thức được những tác hại nặng nề của nạn rửa tiền, Việt Nam đã và đang hoàn thiện các chính sách, pháp luật để kiểm soát vấn nạn này. Đã có nhiều chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền được Nhà nước ta xây dựng, ban hành và áp dụng như Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội; Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP, Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN… Các văn bản này về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý để góp phần ngăn chặn, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền. Tuy nhiên, hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số cùng sự ra đời và xuất hiện của nhiều công nghệ tiên tiến hiện đại đã tạo điều kiện để việc thực hiện các hành vi rửa tiền trở nên nguy hiểm, tinh vi và phức tạp hơn. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, cần phải tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền cho phù hợp tình hình mới nhằm phục vụ hiệu quả cho việc ngăn chặn và xử lý kịp thời, hiệu quả các hành vi rửa tiền trong bối cảnh nền kinh tế số hiện nay.

2. Sự cần thiết của hoạt động phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số

Đối với hầu hết các quốc gia, phòng, chống rửa tiền được xem là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu, bởi rửa tiền chính là việc gửi tiền bất hợp pháp qua các kênh hợp pháp nhằm che giấu nguồn gốc phạm tội. Quỹ Tiền tệ quốc tế ước tính, tổng số tiền được rửa trên thế giới có thể dao động ở mức 2 - 5% GDP toàn cầu. Theo số liệu thống kê, từ năm 1996 con số phần trăm đó đã tương đương khoảng 590 tỷ USD đến 1500 tỷ USD1. Do đó, nếu xét theo bất kỳ một con số ước tính nào thì vấn đề này cũng vô cùng nghiêm trọng và đáng để mỗi quốc gia phải dành sự quan tâm thật đầy đủ.


Đặc biệt hơn, khi ngày nay, nền kinh tế số ngày càng phát triển, tội phạm rửa tiền đã tận dụng điều này để làm gia tăng hành vi rửa tiền bất hợp pháp trở nên phức tạp hơn. Sự phát triển của công nghệ cho phép mọi người tiếp cận hầu hết mọi cơ hội thông qua Internet, tuy nhiên, điều này cũng đã giúp cho đối tượng rửa tiền bất hợp pháp thực hiện các giao dịch rửa tiền mà không cần đến ngân hàng để xác minh danh tính bởi người thực sự truy cập vào tài khoản tổ chức tài chính có thể ẩn danh tính của mình với hệ thống này2. Hơn nữa, giao dịch có thể thực hiện ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, vào bất kỳ thời điểm nào. Càng ngày càng có nhiều tội phạm lạm dụng công nghệ cao để thực hiện những hoạt động phi pháp và rửa các khoản tiền bất chính này bằng công nghệ. Với tính bảo mật cao và tài sản dưới dạng số, thông tin về tổ chức hay cá nhân xác lập giao dịch và chủ sở hữu hưởng lợi thực sự đằng sau các giao dịch không tìm được dễ dàng chính là những điểm mà công nghệ cao bị lạm dụng để rửa tiền. Những đối tượng thực hiện hành vi rửa tiền có thể thực hiện thành công phần lớn là do các đối tượng này có thể che đậy được nguồn gốc của tất cả các khoản tiền và rửa sạch những đồng tiền đó bằng cách dịch chuyển chúng qua các hệ thống tài chính quốc gia và thế giới. Rửa tiền có thể xảy ra ở bất kỳ nước nào nhưng hành vi này gây ra những hậu quả về mặt kinh tế - xã hội, đặc biệt đáng kể cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Bởi vì những quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thường là những thị trường nhỏ, dễ bị tổn thương hơn trước những tác động của tội phạm rửa tiền. Những ảnh hưởng tiêu cực mà tội phạm rửa tiền có thể gây ra cho các nước đang phát triển có thể kể đến là3:

Một là, gia tăng tội phạm và tham nhũng. Có thể nói, việc rửa tiền thành công đồng nghĩa với việc các hoạt động phạm tội có thể sinh lợi và mang lại khoản lợi nhuận khổng lồ cho tội phạm. Do đó, một đất nước còn được xem là nơi trú ẩn an toàn cho hoạt động rửa tiền thì khi đó vẫn còn có nhiều khả năng nước đó có sức lôi cuốn tội phạm và thúc đẩy tham nhũng. Nếu hoạt động rửa tiền trở nên phổ biến tại một quốc gia, thì sẽ tạo ra nhiều tội phạm và tham nhũng hơn. Điều này cũng làm gia tăng tình trạng sử dụng hối lộ để mở những cửa ngõ quan trọng cho thành công của những nỗ lực rửa tiền.

Hai là, tác động xấu đến mối quan hệ quốc tế và đầu tư nước ngoài. Nếu một quốc gia vướng phải tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn cho hoạt động rửa tiền thì cũng gây ra ảnh hưởng bất lợi đáng kể cho sự phát triển của quốc gia đó. Các tổ chức tài chính nước ngoài có thể quyết định hạn chế các giao dịch của mình với những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn cho rửa tiền phi pháp; yêu cầu những giao dịch phải qua sự kiểm soát chặt chẽ, gắt gao hơn, khiến chi phí các giao dịch gia tăng. Những doanh nghiệp hợp pháp hoạt động trong quốc gia lỏng lẻo các tiêu chuẩn về phòng, chống rửa tiền cũng sẽ bị giảm khả năng tiếp cận thị trường thế giới hoặc phải tiếp cận với chi phí đắt đỏ hơn do phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn.

Ba là, làm suy yếu các tổ chức tài chính. Rửa tiền gây nguy hại bằng nhiều cách cho sự lành mạnh khu vực tài chính của một quốc gia cũng như sự ổn định của mỗi tổ chức tài chính. Những hậu quả tiêu cực tác động đến các tổ chức tài chính được coi là rủi ro về mặt uy tín, nghiệp vụ, pháp lý. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi phí cụ thể như mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi, những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra, cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý, các chi phí điều tra và tiền phạt, thu giữ tài sản, tổn thất cho vay, giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức tài chính.

Bốn là, làm nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương. Hành vi rửa tiền bằng cách thức sử dụng “các công ty bình phong” là những công ty với vẻ bề ngoài hợp pháp và tham gia vào hoạt động kinh doanh hợp pháp nhưng thực tế lại là những công ty trá hình của những kẻ phạm tội. Những "công ty bình phong" này hòa trộn các quỹ phi pháp với các quỹ hợp pháp để che giấu những khoản tiền bất chính. Khả năng tiếp cận của các công ty trá hình tới những quỹ phi pháp cho phép chúng bao cấp các sản phẩm và dịch vụ của công ty, thậm chí với giá cả thấp hơn giá thị trường. Do đó, những doanh nghiệp hợp pháp sẽ khó mà cạnh tranh lại với những công ty trá hình này, bởi mục tiêu duy nhất của chúng là bảo toàn và bảo vệ những khoản tiền thu lợi bất chính chứ không phải tạo ra bất kỳ khoản lợi nhuận nào khác.

Như vậy, rõ ràng là hành vi rửa tiền ngày càng gia tăng và phức tạp hơn rất nhiều dưới sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế số. Hành vi rửa tiền không chỉ tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội và tài chính của một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ trên thị trường quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do đó, sự cần thiết của hoạt động phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số là vô cùng cấp bách và quan trọng đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.

3. Thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong nền kinh tế số tại Việt Nam hiện nay

Là một trong những quốc gia sớm ý thức được những hệ quả và tác hại do hoạt động rửa tiền mang lại, Việt Nam đã rất tích cực trong việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh về vấn đề này nhằm kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời hiệu quả các hành vi rửa tiền. Cụ thể, vào ngày 18/6/2012, Luật Phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội thông qua, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam. Luật Phòng, chống rửa tiền đã giúp góp phần minh bạch hóa nền tài chính tiền tệ quốc gia, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế về phòng, chống rửa tiền4. Luật Phòng, chống rửa tiền đã đạt được một số kết quả nhất định như:

Một là, đáp ứng kịp thời nhu cầu nâng cao công tác phòng, chống rửa tiền và mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật về phòng, chống rửa tiền so với Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, minh bạch hóa nền tài chính quốc gia. Đồng thời, Luật Phòng, chống rửa tiền còn tạo căn cứ, cơ sở pháp lý cho việc triển khai hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền ngày càng thuận lợi và sâu rộng5.

Hai là, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, giúp Việt Nam tiến đến việc thực hiện đầy đủ các chuẩn mực, cam kết quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền mà Chính phủ nước ta đã ký kết và tham gia. Cụ thể, năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG). Theo đó, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thành viên của APG về thực hiện 40 Khuyến nghị về chống rửa tiền và 09 Khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ cho khủng bố của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Sau một năm gia nhập APG, tổ chức này đã tiến hành đánh giá cơ chế phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố ở Việt Nam theo công thức 40+9 của FATF. Dù nước ta đã có nhiều nỗ lực và bước tiến trong công tác phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, nhưng mức độ tuân thủ và thực hiện theo các khuyến nghị của FATF vẫn còn hạn chế. Vì thế, dựa trên cơ sở kết quả đánh giá trên, APG đã đưa ra 138 kiến nghị mà Việt Nam cần thực hiện để hoàn thiện hệ thống chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Một trong số những kiến nghị đó là phải sửa đổi khung pháp lý của Việt Nam trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà cụ thể là cần nhanh chóng xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền và Luật Chống tài trợ khủng bố6.

Ba là, đáp ứng các hành động được nêu trong Kế hoạch hành động mà FATF đưa ra cho Việt Nam. Kể từ năm 2010, Việt Nam đã và đang chịu sự rà soát của Nhóm xem xét các vấn đề hợp tác quốc tế (ICRG) thuộc FATF. Thông qua Báo cáo rà soát sơ bộ và Báo cáo rà soát sâu gửi đến Việt Nam, Nhóm xem xét ICRG đều nhận định rằng, Việt Nam phải tiếp tục và nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Một nội dung quan trọng trong Báo cáo là xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền và Luật Phòng, chống khủng bố. Tại Hội nghị toàn thể của FATF, Chính phủ Việt Nam đã cam kết ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền7.

Bên cạnh Luật Phòng, chống rửa tiền 2012, hoạt động phòng, chống rửa tiền còn được Nhà nước ta quy định cụ thể trong Nghị định, Thông tư và các văn bản có liên quan. Tiêu biểu như đối với Nghị định, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP). Theo đó, Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền về các biện pháp phòng, chống rửa tiền, thu thập xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác phòng, chống rửa tiền, các biện pháp phòng, chống rửa tiền, thu thập xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền và hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền. Đối với Thông tư, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 20/2019/TT-NHNN). Thông tư này quy định về đánh giá tăng cường đối với khách hàng có rủi ro cao; thông báo danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; nội dung, hình thức các báo cáo: giao dịch có giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ, giao dịch chuyển tiền điện tử, hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố; mức giá trị của kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng phải khai báo hải quan.

Ngoài ra, hành vi rửa tiền trái pháp luật còn được điều chỉnh bởi pháp luật hình sự. Theo đó, tội rửa tiền lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 với tội danh Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có tại Điều 251 Bộ luật Hình sự 1999. Đến nay, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng quy định tội Rửa tiền tại Điều 324 (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 122, Điều 1 Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015). Trong lần sửa đổi này, Bộ luật Hình sự đã mở rộng yếu tố cấu thành tội rửa tiền hơn so với Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2008. Theo luật cũ, người phạm tội phải biết rõ tài sản là do phạm tội mà có, từ đó, che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó. Tuy nhiên, theo Bộ luật Hình sự hiện hành, chỉ cần có đủ cơ sở để biết tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp mà cố ý thực hiện che giấu nguồn gốc của tài sản đó thì đã bị coi là phạm tội rửa tiền. Đây được xem là một bước tiến đúng đắn trong nỗ lực phòng, chống tội phạm rửa tiền, hạn chế việc bỏ sót tội phạm8.

Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật nêu trên đã góp phần rất lớn vào việc ngăn chặn, kiểm soát và xử lý hiệu quả các hành vi rửa tiền tại Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền cũng đã bộc lộ những vấn đề bất cập và hạn chế nhất định, điều này gây ảnh hưởng đến công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ 4.0 và nền kinh tế số ngày càng phát triển như hiện nay. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:

Một là, hạn chế trong việc xác định phạm vi điều chỉnh. Luật Phòng, chống rửa tiền tập trung chủ yếu vào phòng, chống rửa tiền thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, rửa tiền có thể được thực hiện thông qua rất nhiều kênh khác nhau như nhà hàng, khách sạn, kinh doanh, bất động sản, chứng khoán9 và thậm chí, với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay đã nở rộ lên nhiều hình thức rửa tiền sử dụng công nghệ cao qua các kênh thương mại điện tử.

Hai là, pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam còn thiếu vắng những quy định pháp luật điều chỉnh các giao dịch liên quan đến tiền ảo, tài sản ảo10. Điều 15 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 quy định về trách nhiệm của các đối tượng báo cáo trong các giao dịch liên quan tới công nghệ mới và Điều 8 Nghị định số 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP) cũng hướng dẫn thêm về quy định trên của Luật Phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, tại Điều 8 đã định nghĩa giao dịch liên quan tới công nghệ mới là giao dịch sử dụng công nghệ, cho phép khách hàng thực hiện giao dịch mà không cần gặp mặt trực tiếp nhân viên của đối tượng báo cáo. Như vậy, pháp luật về phòng, chống rửa tiền vẫn chưa có những quy định cụ thể nhằm điều chỉnh các giao dịch liên quan đến tiền ảo, tài sản ảo.

Ba là, pháp luật hình sự chưa có điều khoản quy định về hành vi rửa tiền sử dụng công nghệ cao. Điều 324 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định về tội rửa tiền nhưng không có khoản nào quy định về hành vi rửa tiền sử dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, tại điểm đ, khoản 2, Điều 254 quy định “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt” là tình tiết tăng nặng của tội rửa tiền. Về điểm này, khoản 4, Điều 5, Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền đã giải thích như sau: “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao, móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc thủ đoạn gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm”. Như vậy, sử dụng công nghệ cao được xem là tình tiết tăng nặng khi thực hiện hành vi rửa tiền. Tuy nhiên, vẫn nên có một quy định pháp luật cụ thể để điều chỉnh cho hành vi rửa tiền sử dụng công nghệ cao, đặc biệt là trong bối cảnh khoa học công nghệ ngày càng phát triển không ngừng như hiện nay.

Bốn là, hạn chế trong các quy định pháp luật về hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng, chống rửa tiền. Theo khoản 2, Điều 48, Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 quy định: “NHNN thực hiện trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật; có quyền từ chối cung cấp thông tin cho cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác trong trường hợp cần thiết và theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Tuy nhiên, cho đến hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về phạm vi nội dung thông tin được phép trao đổi, trong khi đó việc tiết lộ thông tin được phép trao đổi của các tổ chức tín dụng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của khách hàng, vì đó là dữ liệu cá nhân của họ, của tổ chức tín dụng hay thậm chí của cả lợi ích quốc gia11. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và giao dịch toàn cầu diễn ra ngày càng nhiều, việc thiếu vắng quy định cụ thể hướng dẫn các quy định pháp luật về hợp tác quốc tế sẽ dẫn đến tình trạng lúng túng cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực thi pháp luật; từ đó, có thể tạo ra khe hở để các tội phạm rửa tiền lợi dụng.

Như vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật Việt Nam về phòng, chống rửa tiền vẫn có nhiều điểm bất cập, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Do đó, việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền là điều rất cấp thiết bởi tội phạm rửa tiền có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự ổn định của hệ thống ngân hàng khi pha lẫn dòng tiền tài chính hợp pháp và bất hợp pháp, gia tăng tỷ lệ tội phạm về tham nhũng, trốn thuế, mua bán nội gián, gian lận thương mại gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội12.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Để khắc phục những vấn đề hạn chế, bất cập nêu trên nhằm góp phần nâng cao hiệu quả về phòng, chống rửa tiền trong bối cảnh nền kinh tế số dưới khía cạnh pháp lý thì đòi hỏi cần phải xem xét, nghiên cứu thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, cần hoàn thiện quy định về phạm vi áp dụng của Luật Phòng, chống rửa tiền theo hướng bao quát hơn. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền theo hướng bao quát tất cả các lĩnh vực đời sống - xã hội có thể diễn ra hoạt động rửa tiền như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng và casino, bất động sản, luật sư, kế toán, công chứng, thương mại điện tử, giao dịch tiền ảo, tài sản ảo… Điều này là cần thiết bởi hiện nay hoạt động rửa tiền có thể thực hiện qua nhiều kênh, nhiều lĩnh vực chứ không đơn thuần chỉ trong lĩnh vực ngân hàng. Ngoài ra, do tại thời điểm xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền 2012, nước ta vẫn chưa có quy định pháp luật về phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng bố nên để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống tài trợ khủng bố, Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 đã quy định hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố. Vì vậy, điều khoản về phạm vi điều chỉnh và báo cáo hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố tại Luật Phòng, chống rửa tiền cần được loại bỏ13.

Hai là, cần bổ sung quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền đối với tiền ảo, tài sản ảo vào Luật Phòng, chống rửa tiền. Tài sản ảo nói chung và tiền ảo nói riêng được sử dụng ngày càng phổ biến và rộng rãi, loại hình tài sản này đã sớm trở thành một phương thức rửa tiền mà các đối tượng hướng tới. Do đó, pháp luật về phòng, chống rửa tiền của nước ta cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các quy định về phòng, chống rửa tiền đối với tiền ảo, tài sản ảo để kịp thời ngăn chặn các hành vi rửa tiền được thực hiện dưới dạng các phương thức này. Cụ thể, cần đưa hoạt động “cung ứng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán, nền tảng công nghệ số, cung ứng dịch vụ liên quan tiền điện tử, tiền kỹ thuật số, tiền ảo, tài sản ảo” vào điểm đ của khoản 3, Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 quy định về hoạt động mà các tổ chức tài chính có thể thực hiện. Mục đích của việc bổ sung này là để đưa các đối tượng cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc cung ứng hạ tầng thanh toán cho các loại tài sản ảo, tiền ảo, tiền kỹ thuật số, thanh toán qua mạng phải báo cáo, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng của Việt Nam.

Ba là, cần bổ sung hành vi rửa tiền thông qua công nghệ, sử dụng tiền ảo, tiền điện tử, tài sản ảo là một tội danh, chứ không phải một tình tiết tăng nặng như theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Điều này là cần thiết bởi lẽ nếu chỉ dừng lại ở việc được xem là một tình tiết tăng nặng như theo quy định hiện nay thì chưa đủ sức để ngăn chặn, răn đe các hành vi phạm tội. Vì vậy, việc quy định rõ hành vi rửa tiền thông qua công nghệ, sử dụng tiền ảo, tiền điện tử, tài sản ảo là một tội danh được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự là điều quan trọng, điều này sẽ tạo được hành làng pháp lý vững chắc để xác định và xử lý nghiêm các hành vi phạm tội của các chủ thể. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, bổ sung điều khoản quy định về việc tịch thu dân sự, bao gồm cả việc tịch thu các tài sản ảo, tiền ảo theo chuẩn mực quốc tế để tạo thêm tính răn đe, ngăn ngừa và xử lý thích đáng các hành vi rửa tiền bất hợp pháp.

Cuối cùng, để đảm bảo về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, Chính phủ cần có quy định hướng dẫn cụ thể về phạm vi nội dung thông tin được phép trao đổi. Ngoài ra, nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động phòng, chống rửa tiền, cần luật hóa trách nhiệm của nhân viên tổ chức tín dụng trong công tác phòng, chống rửa tiền. Nhân viên của tổ chức tín dụng vô ý hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua tổ chức tín dụng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật14.

5. Kết luận

Rửa tiền gây ra nhiều hệ lụy xấu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hoạt động rửa tiền trái pháp luật ngày càng diễn ra tinh vi và phức tạp hơn trong bối cảnh khoa học công nghệ và nền kinh tế số phát triển. Do đó, việc hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc để ngăn chặn hành vi rửa tiền trái pháp luật rất cần thiết và quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trải qua gần một thập kỷ, pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam đã có những bước tiến trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 của Việt Nam cũng dần bộc lộc những hạn chế và thiếu sót. Do đó, đã đến lúc pháp luật Việt Nam về phòng, chống rửa tiền cần có sự thay đổi, chỉnh sửa kịp thời để điều chỉnh những hoạt động rửa tiền trái pháp luật đang diễn ra ngày càng sôi nổi và tinh vi trong nền kinh tế số nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực cho nền kinh tế quốc gia, mối quan hệ đầu tư quốc tế, cũng như giảm bớt tình hình tội phạm về rửa tiền.


1 Vito Tanzi (2015), “Rửa tiền và hệ thống tài chính quốc tế”, truy cập ngày 20/01/2022, https://documents1.worldbank.org/curated/en/931741513768232714/pdf/35052-VIETNAMESE-PUBLIC-REFERE-3.pdf
2 Tạp chí Ngân hàng (2020), “Nhận diện một số phương thức rửa tiền qua các nền tảng trực tuyến”, truy cập ngày 20/01/2022, http://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-mot-so-phuong-thuc-rua-tien-qua-cac-nen-tang-truc-tuyen.htm
3 Ngân hàng Thế giới (2007), “Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố”, truy cập ngày 20/01/2022, https://documents1.worldbank.org/curated/en/931741513768232714/pdf/35052-VIETNAMESE-PUBLIC-REFERE-3.pdf.
4 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23(375) T12/2018, tr.45.
5 Nguyễn Văn Ngọc (2016), “Công tác phòng, chống rửa tiền”, Tạp chí Kiểm sát, số 02 (tháng 01/2016), tr.31.
6 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23(375) T12/2018, tr 47.
7 Nguyễn Hữu Nghĩa, Đào Quốc Tính, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Nguyễn Thị Minh Thơ, Trần Thị Hoài Thu (2014), Pháp luật về phòng chống rửa tiền, Đặc san Tuyên truyền pháp luật, (01), tr 24 - 25.
8 Trần Văn Biên, Trần Tuấn Minh (2020), “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số (08)/2020, tr.48.
9 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23 (375) T12/2018, tr. 47.
10 Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2020), “Bàn về pháp luật phòng, chống rửa tiền sử dụng công nghệ cao”, Tạp chí Ngân hàng, số 14/2020, tr.18.
11 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23 (375) T12/2018, tr.50.
12 Trần Văn Biên, Trần Tuấn Minh (2020), “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 08/2020, tr.48.
13 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23(375) T12/2018, tr.50.
14 Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23(375) T12/2018, tr.51.


Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

2. Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.

3. Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.

4. Nghị định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.

5. Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền.

6. Thông tư số 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền.

7. Đinh Xuân Thảo, Vũ Hồng Anh (2018), “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền năm 2012”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(375).

8. Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2020), “Bàn về pháp luật phòng, chống rửa tiền sử dụng công nghệ cao”, Tạp chí Ngân hàng số 14/2020.

9. Nguyễn Văn Ngọc (2016), “Công tác phòng, chống rửa tiền”, Tạp chí Kiểm sát số 02 (tháng 01/2016).

10. Trần Văn Biên, Trần Tuấn Minh (2020), “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số (08)/2020.

11. Tạp chí Ngân hàng (2020), ”Nhận diện một số phương thức rửa tiền qua các nền tảng trực tuyến”, truy cập ngày 20/02/2022, http://tapchinganhang.gov.vn/nhan-dien-mot-so-phuong-thuc-rua-tien-qua-cac-nen-tang-truc-tuyen.htm.

12. Nguyễn Hữu Nghĩa, Đào Quốc Tính, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Nguyễn Thị Minh Thơ, Trần Thị Hoài Thu (2014), Pháp luật về phòng chống rửa tiền, Đặc san Tuyên truyền pháp luật, (01).

13. Ngân hàng Thế giới (2007), “Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố”, truy cập ngày 20/02/2022, https://documents1.worldbank.org/curated/en/931741513768232714/pdf/35052-VIETNAMESE-PUBLIC-REFERE-3.pdf

14. Vito Tanzi (2015), “Rửa tiền và hệ thống tài chính quốc tế, truy cập ngày 20/01/2022, https://documents1.worldbank.org/curated/en/931741513768232714/pdf/35052-VIETNAMESE-PUBLIC-REFERE-3.pdf


ThS. Trần Linh Huân (Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh)

Bạch Ngọc Vân (Trợ lý pháp lý, Công ty Luật TNHH PwC Việt Nam)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Xem thêm
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng