Nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí và một số định hướng hoàn thiện

Nghiên cứu - Trao đổi
Tóm tắt: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác.
aa

Tóm tắt: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ các vấn đề về nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, đánh giá sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra một số định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.

Từ khóa: Cạnh tranh không lành mạnh, nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hoạt động ngân hàng, kiểm soát, pháp lí.

IDENTIFICATION OF UNFAIR COMPETITION BEHAVIOR IN BANKING ACTIVITIES

IN LEGAL ASPECTS AND SOME COMPLETE ORIENTATIONS

Abstract: Unfair competition behavior in banking activities harms the implementation of the national monetary policy, the safety of the system of credit institutions, the interests of the State, the legitimate rights and interests of other organizations and inpiduals. Starting from there, the article focuses on clarifying the issues of identifying unfair competition behaviors in banking activities, assessing the need to improve the law on anti-unfair competition in the field of banking activities, thereby giving some complete orientations.

Keywords: Unfair competition, identification of unfair competition behavior, banking activities, control, legal.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, Việt Nam đã và đang cố gắng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, vừa tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cho các chủ thể kinh doanh. Là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt là các khía cạnh trong hoạt động ngân hàng. Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 nêu rõ: Hệ thống các TCTD, gồm mọi thành phần kinh tế được đối xử bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nhà nước, thông qua vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng ổn định, an toàn, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm kỉ luật, kỉ cương, thượng tôn pháp luật và tôn trọng các quy luật thị trường. Xuất phát từ Chiến lược phát triển trên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các TCTD như Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Các TCTD năm 2010, Luật NHNN... Cho đến nay, có thể nói rằng, Việt Nam đã và đang triển khai một cách toàn diện và đồng bộ các quy định pháp luật về ngân hàng. Tuy nhiên, các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng còn chung chung, chưa thể hiện được nét đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng. Mặt khác, cho đến thời điểm hiện tại thì Chính phủ chưa chính thức ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành vấn đề này, mà chỉ có Dự thảo Nghị định lần thứ hai được đưa ra vào tháng 6/2011 về “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này”. Đây được xem là một khuyết thiếu của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Chính điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong việc nhận diện, xác định và xử lí kịp thời, hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy, việc nhận diện một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, đánh giá sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra một số định hướng hoàn thiện là điều rất quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.

2. Nhận diện một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng

Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác1. Trên cơ sở cách tiếp cận pháp luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có thể chia thành 03 nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này gồm: (i) Nhóm hành vi xâm phạm đối thủ cạnh tranh; (ii) Nhóm hành vi xâm phạm lợi ích người tiêu dùng; (iii) Nhóm hành vi xâm phạm đến an toàn tín dụng quốc gia. Cụ thể:

Một là, nhóm hành vi xâm phạm đối thủ cạnh tranh. Liên quan đến nhóm hành vi này có thể kể đến là hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh như tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong hoạt động ngân hàng bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó; tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong hoạt động ngân hàng mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó; cung cấp thông tin không trung thực về TCTD khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về TCTD gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của TCTD đó; gây rối hoạt động kinh doanh của TCTD khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của TCTD đó. Các hành vi này đều tác động trực tiếp đến TCTD đối thủ và nhằm mục đích hạ uy tín, lợi nhuận của TCTD đó.

Hai là, nhóm hành vi xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng, điển hình như ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của TCTD khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với TCTD đó; lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về TCTD nhằm thu hút khách hàng của TCTD khác; so sánh dịch vụ của mình với dịch vụ của TCTD khác nhưng không chứng minh được nội dung; cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ TCTD khác.

Ba là, nhóm các hành vi xâm phạm tín dụng quốc gia. Ở nhóm thứ ba này, bất kì hành vi nào gây ảnh hưởng đến mục tiêu an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia thì đều là hành vi xâm phạm hệ thống tín dụng quốc gia. Bởi lẽ, hoạt động ngân hàng là hoạt động nền tảng và quan trọng nhất trong nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động ngân hàng là trụ cột của nền kinh tế quốc gia. Bất kì sự biến động nào trong hoạt động ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế và ngược lại, mọi khía cạnh trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng và tác động ngược trở lại vào sự hoạt động bình thường của hoạt động ngân hàng. Do vậy, các hành vi trong nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai cũng đồng thời là hành vi thuộc nhóm thứ ba này. Nói một cách đơn giản, tất cả những hành vi tác động đến TCTD; người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng đều có thể ảnh hưởng đến an toàn hệ thống tín dụng quốc gia. Do đó, những hành vi này cần được pháp luật quy định một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt và cần thiết xây dựng các biện pháp xử lí kịp thời, hiệu quả.

Bên cạnh ba nhóm hành vi trên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng còn tồn tại một hành vi thứ tư là “đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ”. Đây được xem là hành vi mang tính đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng, bởi lẽ chỉ có các TCTD được cấp giấy phép kinh doanh trong hoạt động ngân hàng mới có khả năng hoạt động trên thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ. Tuy nhiên, hành vi đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nếu một TCTD tiến hành mua gom các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ hoặc mua gom vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với số lượng lớn đủ để chi phối giá cả nhằm mục đích lũng đoạn thị trường và dẫn tới loại trừ các đối thủ cạnh tranh2. Đây là một hành vi cực kì nguy hại đối với hệ thống các TCTD nói riêng và toàn bộ nền kinh tế thị trường nói chung. Mặt khác, tỉ giá ngoại tệ và giá vàng có tác động sâu rộng đến nền kinh tế nên bất kì sự biến động nào về chỉ số này thì chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến sự bình ổn của hoạt động ngân hàng và nền kinh tế thị trường.

3. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng

Như đã đề cập, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng còn hạn chế, chưa hoàn thiện đầy đủ, điều này đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho việc áp dụng và thực thi hiệu quả các quy định pháp luật trong việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là điều rất quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Từ những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả, để hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng thì cần giải quyết được hai vấn đề chính yếu sau: (i) Sửa đổi một số bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh; (ii) Hoàn thiện và sớm ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Sở dĩ tác giả kiến nghị “ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng” là vì:

Thứ nhất: Dưới góc độ lí luận, Việt Nam là quốc gia có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của truyền thống pháp luật Civil Law (Dân luật), một trong những đặc trưng của hệ thống pháp luật này là tính bao quát, cứng nhắc chứ không cụ thể và linh hoạt như pháp luật của các quốc gia theo truyền thống pháp luật Common Law (Thông luật). Chính vì vậy nên các bộ luật, luật khi được ban hành ra phải mang tính khái quát hóa cao và ổn định trong một thời gian dài. Vì thế không thể quy định một cách quá chi tiết trong các bộ luật, luật. Khi bộ luật, luật được quy định chi tiết quá mức cần thiết sẽ dẫn đến nội dung quy định dài dòng, khó theo dõi và làm mất đi cấu trúc toàn văn vốn có. Do vậy, cần thiết ban hành văn bản dưới luật (Nghị định) để quy định cụ thể và chi tiết hơn. Bên cạnh đó, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là vấn đề đặc thù, nó thể hiện ở tính nhạy cảm và rủi ro cao; tính dây chuyền và sự ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội quốc gia là rất lớn. Đặc biệt, có những vấn đề rất đặc thù chỉ có trong hoạt động ngân hàng mà pháp luật cạnh tranh nói chung khó có thể vận dụng để điều chỉnh, do đó cần tạo hành lang pháp lí chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng để quy định chi tiết về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.

Thứ hai: Dưới góc độ pháp lí, việc ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là cần thiết vì:

Một là, Công văn số 339/NHNN-CSTT ngày 07/4/2004 của NHNN về hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại có ghi nhận: Trên thị trường tiền tệ, tín dụng ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, nếu không được ngăn chặn, chấn chỉnh sẽ tác động xấu đối với thị trường và kinh doanh của các ngân hàng. Biểu hiện là một số ngân hàng thương mại lạm dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh huy động vốn, cho vay, làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính; nới lỏng điều kiện cho vay để thu hút khách hàng. Để có thể chấn chỉnh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên, NHNN đã và đang trình Quốc hội, Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thông lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm tạo sân chơi và sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại.

Hai là, theo Công văn số 4494/VPCP-KTTH ngày 18/6/2014 của Văn phòng Chính phủ về việc Nghị định quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và các hình thức xử lí các hành vi này thì xét đề nghị của NHNN tại Công văn số 3072/NHNN-TTGSNH ngày 08/5/2014 về điều chỉnh chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ năm 2014, căn cứ ý kiến của Bộ Tư pháp tại Công văn số 2559/BTP-PLDSKT ngày 04/6/2014, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh đồng ý rút Nghị định quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này ra khỏi chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ năm 2014; giao cho NHNN nghiên cứu và trình Chính phủ Nghị định quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ năm 2015.

Ba là, tại mục I của Dự thảo tờ trình Chính phủ về việc ban hành Nghị định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng tháng 6/2011 có đề cập đến sự cần thiết phải ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Theo Dự thảo này, vấn đề cạnh tranh đang tồn tại ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, đặc biệt thể hiện một số hoạt động và hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu như: Thu hút tiền gửi với mức lãi suất tiền gửi cao hơn; quảng cáo đưa ra không đúng hoặc gây hiểu lầm về nguồn lực tài chính, đưa ra những báo cáo kiểm toán gây hiểu lầm để hỗ trợ những quảng cáo, với quan điểm là để thu hút người gửi tiền từ những ngân hàng khác; khoản vay lãi suất thấp hơn cho khách hàng của một lĩnh vực cụ thể so với lãi suất cho người vay các khu vực khác; giảm giá tùy tiện mà không có lí do hợp lí hoặc cung cấp dịch vụ dưới chi phí; nới lỏng các điều kiện bắt buộc đối với khách hàng khi xem xét các đề xuất vay vốn; cung cấp các thông tin về vấn đề và khó khăn của các ngân hàng khác, gièm pha đối thủ cạnh tranh và cung cấp thông tin sai trái để gây nhầm lẫn cho khách hàng; gây hạn chế hoặc trì hoãn một cách bất hợp lí các giao dịch thanh toán với các ngân hàng đối thủ; tham gia vào các giao dịch và các hoạt động ngoài phạm vi kinh doanh; chào lãi suất cao hơn mức lãi suất cho phép của NHNN; quy định hạn ngạch trong việc huy động tiền gửi.

Bốn là, Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 có nêu quan điểm: “Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò quan trọng góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó, Quyết định này ghi nhận việc “Hoàn thiện Luật NHNN và các quy định liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN, bảo đảm NHNN vừa tăng cường được tính độc lập, chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ, vừa đảm bảo vai trò là một cơ quan Chính phủ; củng cố, nâng cao năng lực ngành Ngân hàng, bảo đảm sau năm 2020 thị trường ngân hàng cơ bản hoạt động theo nguyên tắc thị trường; rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, cấp phép, thanh tra, giám sát và xử lí sau thanh tra, giám sát theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam; tăng cường trách nhiệm, tăng tính công khai, minh bạch trong quản trị và hoạt động của các TCTD, phù hợp với yêu cầu của cơ cấu lại các TCTD trong từng giai đoạn”. Do vậy, hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng chính là tạo công cụ xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, hiệu quả; hạn chế tối đa hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, góp phần bảo vệ các TCTD cũng như quyền lợi của người tiêu dùng.

Năm là, sau khi Dự thảo Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này được đưa ra lấy ý kiến đóng góp từ tháng 6/2011, Chính phủ chưa chính thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về vấn đề này. Trong khi đó, Dự thảo Nghị định này lại dẫn chiếu đến các quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, tuy nhiên, hiện nay Luật này đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Luật Cạnh tranh năm 2018 với nhiều điểm khác biệt và tiến bộ hơn. Do đó, một số Điều khoản mà Dự thảo này đưa ra đến nay đã không còn phù hợp. Thêm vào đó, tại khoản 3 Điều 9 Luật Các TCTD năm 2010 có quy định “Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này”. Chính vì lẽ đó, Chính phủ cần sớm thống nhất và ban hành Nghị định chính thức nhằm quy định chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hình thức xử lí để hình thành cơ sở pháp lí chính thức điều chỉnh vấn đề này. Trong nội dung của Nghị định này cần đưa ra các tiêu chí làm cơ sở để đánh giá được những hành vi cạnh tranh nào được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và mức độ của nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác. Trên cơ sở đó, cơ quan chức năng có thẩm quyền có căn cứ để điều tra, đánh giá, phát hiện và xử lí kịp thời các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

Thứ ba: Dưới góc độ của các TCTD và người tiêu dùng, cạnh tranh một mặt là động lực thúc đẩy các TCTD phát triển, tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những mặt trái mà hành vi cạnh tranh mang lại. Do vậy, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cũng cần thiết phải thiết lập các quy định cụ thể, riêng biệt, đặc thù để nhằm bảo vệ những chủ thể kinh doanh này.

Thứ tư: Dưới góc độ của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh luôn tồn tại và phát triển song song với sự chuyển động của nền kinh tế thị trường. Kinh tế càng phát triển, kéo theo đó là sự phát triển của khoa học, công nghệ. Các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển phong phú, phức tạp hơn, đòi hỏi những yêu cầu khắt khe hơn. Trong khi đó, pháp luật với chức năng là điều chỉnh các quan hệ xã hội một mặt dự báo và điều chỉnh những vấn đề có khả năng sẽ phát sinh trong tương lai; mặt khác sẽ dựa vào quan hệ kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn mà sẽ có sự thay đổi, điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn. Chính vì lẽ đó, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cũng cần có sự thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn để có thể điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này.

Xuất phát từ những lí do cơ bản trên đây, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là rất cần thiết.

4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng

Như đã đề cập, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về vấn đề này cần phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo được các yêu cầu định hướng sau:

Thứ nhất, đối với hành vi xâm phạm thông tin bí mật kinh doanh ngân hàng. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như hiện nay, việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật mới trong dịch vụ ngân hàng ngày càng tân tiến và phát triển. Tuy nhiên, chính vì sự tiến bộ của công nghệ hiện đại kéo theo đó là những hành vi, thủ đoạn xâm phạm bí mật kinh doanh trong ngân hàng ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Do đó, các thông tin về chính sách cũng như chiến lược phát triển, mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng phải được bảo vệ như một bí mật kinh doanh. Trong khi đó, bí mật kinh doanh ngân hàng là một yếu tố trọng yếu quyết định sự tồn vong của ngân hàng. Chính vì lẽ đó, pháp luật cần kiểm soát chặt chẽ các hành vi xâm phạm thông tin bí mật kinh doanh. Đó có thể là những hành vi do chính TCTD đối thủ gây ra, ví dụ như lợi dụng lòng tin từ đối thủ cạnh tranh để khai thác tiện ích trong dịch vụ ngân hàng mà đối thủ cạnh tranh dự định cung ứng trên thị trường; mua lại nhân viên của TCTD đối thủ hoặc tuyển dụng nhân viên của đối thủ cạnh tranh chỉ vì nhân viên này nắm được bí mật kinh doanh của TCTD; xâm phạm thông tin bí mật kinh doanh của TCTD khác một cách trái phép bằng cách vận dụng khoa học và công nghệ hiện đại. Hoặc có thể là hành vi do nội bộ TCTD đó tiết lộ, ví dụ như nhân viên của TCTD tiết lộ về tình hình quản trị, điều hành, tình hình tài chính của chính TCTD mình khi thông tin chưa được kiểm chứng, chưa được công khai hoặc thông tin này theo quy định của TCTD là thông tin bí mật nội bộ; tiết lộ thông tin về những nguy cơ rủi ro của TCTD mình dẫn đến các TCTD khác lợi dụng điểm yếu này mà gây hại cho TCTD...

Thứ hai, đối với hành vi cung cấp thông tin không trung thực về TCTD khác. Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình và gây hậu quả nặng nề trong hoạt động ngân hàng suốt thời gian qua. Khi quy định hành vi cung cấp thông tin không trung thực về TCTD khác nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh cần lưu ý các vấn đề sau:

(i) Phân biệt giữa quyền tự do ngôn luận với việc lợi dụng quyền này để tung tin đồn ảnh hưởng đến sự ổn định, bình thường trong hoạt động kinh doanh của TCTD đối thủ. Về cơ bản, các TCTD khi thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường được phép thu thập và tiếp cận các thông tin liên quan đến đối thủ cạnh tranh trên thị trường, sử dụng các thông tin đó để học hỏi, rút kinh nghiệm và đưa ra chính sách cạnh tranh phù hợp. Còn hành vi thu thập thông tin, cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín TCTD đối thủ được xem là cạnh tranh không lành mạnh.

(ii) Phân biệt giữa quyền tố cáo với hành vi lạm dụng quyền tố cáo để gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của TCTD đối thủ. Sở dĩ phải có sự phân biệt này là vì trên thực tế, cách hiểu và giải thích về hành vi này còn tồn tại nhiều tranh cãi và chưa có sự thống nhất, gây nên những hậu quả không đáng có. Điển hình có thể kể đến là vụ việc ngân hàng tố nhau vi phạm trần lãi suất huy động vốn, phía người bị tố là Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á tại Tây Ninh cho rằng đây là hành động “chơi xấu” của ngân hàng thương mại đi tố cáo3. Trong khi đó, về phía NHNN lại cho rằng, đây là hành vi giám sát lẫn nhau giữa các TCTD, giúp cho NHNN có thêm thông tin để quản lí dễ dàng hơn.

Thứ ba, đối với hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của TCTD khác. Đây là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp gây cản trở, gián đoạn hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, được thể hiện dưới dạng hành vi như lôi kéo người gửi tiền từ đối thủ cạnh tranh về phía mình bằng cách nói xấu năng lực tài chính, hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh; xâm phạm bí mật huy động tiền gửi của đối thủ cạnh trạnh; cản trở người gửi tiền khi người gửi tiền muốn chuyển tiền gửi qua ngân hàng khác; cố tình tạo ra tranh chấp pháp lí gây ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD khác như yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra làm gián đoạn hoạt động kinh doanh... Do đó, các quy định pháp luật khi được xây dựng, ban hành phải hướng tới việc kiểm soát chặt chẽ vấn đề này.

Thứ tư, hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng. Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng có hai biểu hiện nổi bật nhất là khuyến mại bất hợp pháp nhằm cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, cụ thể:

Một là, khuyến mại bất hợp pháp nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi khuyến mại nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi được thực hiện nhằm tạo lợi thế so sánh cho dịch vụ của ngân hàng mình cung cấp. Liên quan đến khuyến mại, khi xây dựng các quy định điều chỉnh về vấn đề này có thể tham khảo Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Theo đó, Nghị định này có đưa ra các nguyên tắc thực hiện việc khuyến mại như chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, trung thực, công khai, minh bạch; bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải quyết các khiếu nại (nếu có) liên quan đến chương trình khuyến mại; bảo đảm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại; không đưa ra điều kiện để khách hàng được hưởng khuyến mại là phải từ bỏ, từ chối hoặc đổi hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức khác; không có sự so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác. Bên cạnh đó, Nghị định này còn quy định về hạn mức tối đa về giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại; các hình thức khuyến mại; cách thức, trình tự, thủ tục đăng kí khuyến mại... Việc tham khảo tinh thần quy định tại Nghị định số 81/2018/NĐ-CP để hoàn thiện khung pháp lí điều chỉnh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là điều cần thiết.

Hai là, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Quảng cáo là phương thức được các TCTD sử dụng một cách thường xuyên và phổ biến nhất. Xuất phát từ bản chất “quảng cáo là thông tin mang tính một chiều, là thông tin không đầy đủ, nội dung của nó mang tính chọn lọc, phụ thuộc vào ý chí của nhà quảng cáo”4 nên việc kiểm soát hành vi quảng cáo của các TCTD là việc quan trọng và cần thiết. Khi luật hóa hành vi này trong hoạt động ngân hàng cần lưu ý các vấn đề sau:

(i) Các quy định của pháp luật về quảng cáo nên được tiếp cận ở phạm vi rộng. Hay nói cách khác, phạm vi tiếp cận ở đây bao gồm bất kì hành vi nào đưa ra tuyên bố, bằng bất kì hình thức nào liên quan đến hoạt động kinh doanh của TCTD có thể gây ra sự nhầm lẫn hoặc quảng cáo so sánh dẫn đến sự hiểu lầm cho khách hàng. Chỉ khi tiếp cận ở phạm vi rộng như vậy thì mới có thể tạo điều kiện cho cơ quan quản lí nhà nước, TCTD đối thủ cũng như khách hàng dễ dàng nhận biết và xử lí.

(ii) Cần phân biệt mức độ giống nhau của dịch vụ ngân hàng với cách thức để đưa những thông tin đó tới khách hàng. Một điểm khác biệt và có thể nói là đặc thù nhất của hoạt động ngân hàng đó là có đối tượng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Do đó, có thể nói những dịch vụ mà các TCTD cung cấp là tương tự nhau. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với hành vi quảng cáo về chất lượng dịch vụ cũng như các tiện ích đi kèm của TCTD là giống nhau. Việc thực hiện hành vi quảng cáo giống nhau với lí do có chung đối tượng kinh doanh như vậy phải được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, bởi lẽ đây là dạng bắt chước sản phẩm quảng cáo gây nhầm lẫn cho khách khác. Do vậy, khi phân biệt được mức độ giống nhau về dịch vụ ngân hàng với cách thức để quảng cáo thông tin với khách hàng giúp nhận diện được hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong sản phẩm quảng cáo của các TCTD.

Thứ năm, nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng xâm phạm đến mục tiêu an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống TCTD, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đây được xem là nhóm các hành vi đặc thù chỉ xuất hiện trong hoạt động ngân hàng. Bởi lẽ, chỉ có hoạt động ngân hàng mới có đủ vị trí, chức năng và vai trò làm ảnh hưởng đến an toàn tín dụng và chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, khi xây dựng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, cần bám sát vào các đặc thù của hoạt động ngân hàng, tránh đưa ra quy định chỉ mang tính khái quát, chung chung.

5. Kết luận

Việc xây dựng văn bản quy định chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng là cơ sở pháp lí quan trọng để các cơ quan chức năng nhận diện được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và có biện pháp xử lí thích hợp. Trên nền tảng các dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh được ghi nhận trong Luật Cạnh tranh nói chung, khi xây dựng văn bản quy định chi tiết về vấn đề này, cần chỉ ra được những dấu hiệu đặc thù của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Theo đó, các dấu hiệu này bao gồm: (i) Cạnh tranh giữa các TCTD với nhau hoặc với các tổ chức khác được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng; (ii) Có hành vi trái với chuẩn mực, đạo đức kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng; (iii) Hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho TCTD khác, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống ngân hàng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

1 Khoản 4 Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này.
2 Lê Như Thơ (2009), Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 75 - 76.
3Viên Thế Giang (2014), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội; trang 139.

4 Luật Ngân hàng Cộng hòa Séc số 21/1992 Coll, ngày 20/12/1991, trang 14.

Tài liệu tham khảo:

1. Luật NHNN năm 2010.

2. Luật Các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Luật Cạnh tranh năm 2018.

4. Luật Ngân hàng Cộng hòa Séc số 21/1992.

5. Dự thảo Nghị định lần 2 của Chính phủ quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.

6. Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.



ThS. Trần Linh Huân (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)

Trần Thị Thảo (Công ty TNHH dịch vụ thương mại Yes4All)

ThS. Phạm Thị Hồng Tâm ( Trường Đại học Phan Thiết)

ThS. Đỗ Thị Lan Anh (Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng