Lựa chọn ngành sản phẩm kích cầu để đạt mục tiêu tăng trưởng tối ưu

Nghiên cứu - Trao đổi
Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933... Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng...
aa

Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933...



Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra

Dịch bệnh và sự cần thiết của các biện pháp kích cầu

Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 và lớn hơn nhiều cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới 2008 - 2009, kéo theo những ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sinh kế của người dân. Nhiều nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đa chiều, phức tạp (khủng hoảng sức khỏe, khủng hoảng kinh tế và sụt giảm mạnh của giá cả hàng hóa). Căn cứ vào những biện pháp kiểm dịch và sự phát triển của các liệu pháp cũng như vắc-xin điều trị bệnh, các chuyên gia dịch tễ học trên thế giới dự báo dịch Covid-19 còn kéo dài đến hết năm 2021.

Do dịch bệnh lan rộng, nên hoạt động sản xuất tại các nước trên thế giới cũng bị đình đốn làm cho chuỗi giá trị sản xuất bị gián đoạn, những ngành sản xuất phụ thuộc đầu vào từ các nước khác lại tiếp tục bị đình đốn. Khi doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, thất nghiệp và các rủi ro trong nền kinh tế gia tăng thì người tiêu dùng có xu hướng tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để phòng ngừa rủi ro. Đồng thời, nhà đầu tư cũng sẽ thu hẹp đầu tư mà chuyển sang nắm giữ các tài sản an toàn. Sự sụt giảm mạnh đồng thời của tổng cầu và tổng cung sẽ gây ra suy thoái kinh tế sâu. Dự kiến tăng trưởng GDP năm 2020 của Mỹ giảm khoảng 4,3%, khu vực đồng Euro giảm 8,3%, Nhật Bản giảm tới 5,3%; các nước ASEAN-5 giảm khoảng 3,4%, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 1,9% và cả thế giới giảm 4,4% (nguồn IMF).

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Việt Nam. Tổng cầu suy giảm mạnh từ cả đầu tư, tiêu dùng nội địa và nhu cầu hàng hóa của thế giới do các biện pháp đóng cửa quốc gia, giãn cách xã hội, cách ly, phong tỏa, trong khi các chính sách chuyển hướng giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài chưa có tác động đáng kể. Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp tài khóa, tiền tệ, tín dụng và đầu tư nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp cả trong nước và trên thế giới, tác động sâu đến nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 mặc dù đạt 2,91% nhưng thấp hơn rất nhiều so với xu hướng tăng trưởng của Việt Nam trong 35 năm đổi mới.

Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19. Trong nhóm giải pháp đó, kích cầu là một trong những giải pháp quan trọng, giúp huy động nguồn lực trong nước, tạo động lực và nền tảng để khôi phục và mở rộng cầu quốc tế. Một điểm cần lưu ý, Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở cao (tỷ lệ xuất khẩu/GDP lên tới trên 200%), cầu xuất khẩu suy giảm đã ảnh hưởng mạnh tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, từ đó làm giảm việc làm và thu nhập của các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, máy tính và linh phụ kiện, dẫn tới cầu đầu tư khu vực kinh tế tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tuy nhiên, các biện pháp kích cầu trong nước cũng sẽ ít tác dụng đối với kích cầu xuất khẩu khi các nước đối tác vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn tới cầu đối với các mặt hàng không thiết yếu khó tăng cao. Bên cạnh đó, nhiều ngành hàng của Việt Nam phụ thuộc lớn vào nhập khẩu cho sản xuất và tiêu dùng, do đó, nếu kích cầu vào những ngành này cũng khó mang lại hiệu quả cao vì chi phí kích cầu sẽ chạy ra bên ngoài.

Khác với các cuộc khủng hoảng trước, đại dịch Covid-19 xảy ra khi các nền kinh tế và sức khỏe của doanh nghiệp vẫn trong tình trạng tốt là nền tảng quan trọng để sử dụng không gian chính sách hiện có, thực thi các giải pháp ứng phó, ít nhất là trong ngắn - trung hạn. Các giải pháp kích cầu hiện nay đang tập trung chủ yếu vào giải ngân đầu tư công và hỗ trợ theo đối tượng mà chưa có các giải pháp hỗ trợ theo ngành, lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là cần lựa chọn các ngành, lĩnh vực nào để kích cầu mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế trong bối cảnh tất cả các ngành, lĩnh vực đều đang gặp khó khăn, dịch bệnh có thể kéo dài, nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn hẹp, không thể đầu tư dàn trải, cào bằng cho tất cả các ngành, lĩnh vực hay đối tượng bị tổn thương. Do đó, thực hiện các biện pháp kích cầu cần phải xác định được những ngành ưu tiên, trọng điểm để kích cầu một cách hiệu quả nhất: Chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả tác động lớn nhất. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề xuất một số phương án kích cầu ưu tiên, trọng điểm và tính toán chi phí kích cầu cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng tích cực trong bối cảnh hiện nay.

Về các giải pháp kích cầu đã thực hiện

Về nguyên tắc, có ba nhóm giải pháp kích cầu cơ bản: (i) Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho người dân bằng tiền; (ii) Nhà nước trợ giá, giảm thuế, giảm chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp; (iii) Nhà nước đứng ra mua các sản phẩm, dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp.

Đối với nhóm giải pháp thứ nhất, Chính phủ đã thực hiện gói 62 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ, tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân khá thấp1 và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.

Đối với nhóm giải pháp thứ hai, Chính phủ cũng đã triển khai các chính sách ưu đãi như cắt giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ; thực hiện các chương trình ưu đãi; giãn, hoãn các khoản phải nộp của doanh nghiệp về thuế, tiền thuê đất; cắt giảm giá điện, xăng dầu, dịch vụ,... cho một số đối tượng ưu tiên;... Việc Chính phủ cân nhắc, xem xét bảo lãnh và/hoặc trợ giúp một số doanh nghiệp lớn gặp khó khăn cũng là điều có thể lý giải được, bởi các doanh nghiệp lớn là khách hàng quan trọng của nhiều doanh nghiệp nhỏ, có khả năng tạo sức lan tỏa và động lực cho các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay khi hầu hết các doanh nghiệp giảm mạnh doanh thu, lợi nhuận và thua lỗ, các biện pháp về giảm thuế thu nhập nhìn chung không có tác dụng lớn như kỳ vọng. Cái khó khăn và cần nhất đối với doanh nghiệp lúc này là hỗ trợ vốn cho duy trì sản xuất kinh doanh liên tục, song đến nay, ngoài các chính sách về thuế, phí và các biện pháp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) thì Nhà nước chưa có chính sách, biện pháp hỗ trợ tài chính đủ lớn để doanh nghiệp có được nguồn vốn cần thiết nhằm không chỉ vượt qua giai đoạn khó khăn này, mà còn tạo thế, lực, tận dụng cơ hội phát triển bứt phá cho chu kỳ kinh tế mới sau khi dịch bệnh qua đi.

Trong khi đó, chính sách giảm lãi suất chưa thực sự mang lại hiệu quả kích thích doanh nghiệp vay vốn cho sản xuất kinh doanh như mong muốn, bởi nhu cầu vay mới của doanh nghiệp thấp hoặc doanh nghiệp chưa đáp ứng các tiêu chuẩn vay2. Bên cạnh đó, khả năng giảm lãi suất cho các khoản nợ hiện hành cũng rất hạn chế do: (1) Chi phí huy động vốn trước đây của các ngân hàng đã cao và các nguồn vốn huy động mới với lãi suất thấp hơn vẫn còn ít, bao gồm cả nguồn tái cấp vốn của NHNN; (2) Năng lực tài chính, lợi nhuận của các ngân hàng còn hạn chế để hỗ trợ khách hàng; (3) Một số ngân hàng nhỏ, khả năng huy động vốn thấp vẫn phải cạnh tranh huy động vốn bằng lãi suất cao; (4) Tình hình tài chính, hoạt động của doanh nghiệp ngày càng khó khăn, rủi ro tín dụng đang gia tăng thì các ngân hàng khó giảm lãi suất cho vay để bù đắp rủi ro cao; (5) Các ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn hơn về tài chính, lợi nhuận giảm mạnh do chi phí dự phòng rủi ro cho các khoản nợ, tài sản giảm chất lượng tăng mạnh nên khó có điều kiện chia sẻ khó khăn cho các khách hàng vay, nếu nguồn vốn huy động của các ngân hàng không sớm được cơ cấu lại bằng các nguồn vốn có chi phí thấp, nhất là nguồn vốn hỗ trợ từ NHNN với lãi suất thấp.

Trong bối cảnh đó, kích cầu cũng có thể được thực hiện thông qua giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), đem lại lợi ích trực tiếp cho khách hàng và người tiêu dùng; đồng thời, gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp giải phóng hàng hóa, tránh tình trạng tồn kho và kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều lưu ý là cần xác định thời gian áp dụng chính sách này một cách chặt chẽ, căn cứ vào diễn biến dịch bệnh và tình hình kinh tế - xã hội. Trên thực tế, trong bối cảnh Covid-19, nhiều quốc gia thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo thu nhập cho người dân và sử dụng VAT như công cụ của chính sách tài khóa. Chẳng hạn, ngày 12/6/2020, Chính phủ Đức đã quyết định phê chuẩn việc tạm thời giảm VAT nhằm khuyến khích và tăng cầu tiêu dùng của người dân3.

Theo tính toán của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kết quả cho thấy việc giảm VAT có tác động tích cực tới các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam như tổng cầu cuối cùng, GDP và tiêu dùng. Cụ thể, trong ngắn hạn, việc giảm VAT 1% sẽ làm các yếu tố như tổng cầu cuối cùng tăng 0,42 điểm %, GDP tăng 0,13 điểm % và tiêu dùng tăng 0,23 điểm %. Nếu VAT giảm 2% sẽ có tác động tổng cầu cuối cùng tăng 0,76 điểm %, GDP tăng 0,23 điểm % và tiêu dùng tăng 0,42 điểm %. Trong trung và dài hạn, với giả thiết thuế VAT giảm từ 1% - 2% có thể làm tổng cầu cuối cùng tăng 0,32 - 0,58 điểm %, GDP tăng 0,09 - 0,15 điểm % và tiêu dùng tăng 0,1 - 0,2 điểm %. (Hình 1)



Đối với nhóm giải pháp thứ ba, Chính phủ cũng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư công và kết quả cả năm 2020 giải ngân đạt hơn 91% kế hoạch cả năm, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, đặc biệt các dự án sử dụng vốn ODA có tỷ lệ giải ngân rất thấp. Tác động của giải ngân vốn đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế được Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu (Hình 2).


Đánh giá chung, các giải pháp kích cầu nêu trên chỉ mang tính tổng thể, nếu thiếu một kế hoạch cụ thể có chọn lọc, trọng tâm thì hiệu quả sẽ không cao mà chi phí lớn. Ví dụ, việc giảm đồng loạt VAT có thể có tác dụng kích cầu nền kinh tế nhưng chi phí đối với ngân sách sẽ rất lớn, hiệu quả không cao do có rất nhiều ngành hàng việc giảm thuế không ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế như những ngành có cầu không co giãn, những ngành chủ yếu nhập khẩu, ngành bị suy giảm do lo sợ dịch bệnh (như dịch vụ ăn uống, lưu trú) chứ không phải vì cầu yếu,... Tương tự, hiệu quả của đầu tư công, chi tiêu công trong bối cảnh hiện nay sẽ cao hơn nhiều nếu vốn nhà nước được sử dụng đúng mục tiêu, đúng những lĩnh vực có tác động lớn đến nền kinh tế. Chính vì lý do này, chúng ta cần có một kế hoạch kích cầu chi tiết hơn, cụ thể hơn.



Bên cạnh việc kích cầu trong nước, Chính phủ quan tâm đến các giải pháp kích cầu xuất khẩu

Xác định ngành mục tiêu để kích cầu

Nguyên tắc xác định ngành mục tiêu

Căn cứ vào số liệu của Bảng I-O (bảng cân đối liên ngành) cập nhật đến năm 2016 có thể tính toán các hệ số liên kết ngược4, xuôi5 cho 164 phân ngành trong nền kinh tế6, và các tỷ trọng nhập khẩu so với tiêu dùng, hệ số lan tỏa kinh tế7, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành đó trong nền kinh tế, tỷ trọng hàng hóa đó dành cho tiêu dùng cuối cùng so với phần dành cho quá trình sản xuất.

Dựa trên các chỉ số này, các nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu được xác định như sau: (1) Có hệ số liên kết ngược lớn hơn mức trung bình của cả nền kinh tế; (2) Có hệ số lan tỏa kinh tế lớn. Bên cạnh đó, để hiệu quả kích cầu cao thì những ngành sau sẽ không được ưu tiên lựa chọn: Những ngành nhập khẩu quá nhiều (nhằm hướng tới mục tiêu kích cầu trong nước và xuất khẩu thay vì kích thích nhập khẩu; trong khuôn khổ bài viết này, những ngành có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên 50% đều không được chọn); những ngành có tỷ trọng quá nhỏ so với nền kinh tế (vì khi chi phí quản lý gói kích cầu lớn hơn hiệu quả mang lại), những ngành có độ co giãn của cầu theo giá thấp (tức là giá tăng hay giảm cũng không ảnh hưởng đến lượng cầu của hàng hóa đó), hoặc những ngành mà chỉ một nhóm nhỏ người được hưởng lợi (kích cầu phải có lợi cho số đông người). Đồng thời, những ngành có số lượng lao động lớn, những ngành có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng cũng được ưu tiên xem xét lựa chọn.

Đề xuất các ngành ưu tiên hỗ trợ

Đối chiếu theo nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu ở trên, ta có bảng nhóm các ngành sản phẩm có hệ số lan tỏa tốt và hệ số liên kết ngược cao. (Bảng 1)


Các nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP nhưng hệ số lan tỏa bình quân đạt khoảng 4,68. Như vậy, nếu tăng chi tiêu công, đầu tư công cho các ngành này 1 đồng thì có thể làm tăng GDP lên khoảng 4,68 đồng. Như vậy, với GDP năm 2019 (theo giá so sánh năm 2010) là 3.783.546 tỷ đồng, để tăng thêm 1 điểm % GDP thì trung bình cần chi phí kích cầu khoảng 81 nghìn tỷ đồng. Để GDP tăng thêm 3 điểm % thì chi phí kích cầu cần ít nhất là 243 nghìn tỷ đồng.

Điều đáng lưu ý là những ngành chăn nuôi, chế biến nông sản và thủy sản đều có hệ số lan tỏa cao. Nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 6,1% GDP8, hệ số liên kết ngược là 1,25 (cao hơn mức bình quân của cả nước là 25%) và hệ số lan tỏa khoảng 5,1. Việc kích cầu vào nhóm này vừa có tác dụng hỗ trợ các hoạt động nông nghiệp, vừa là bệ đỡ cho những nhóm lao động dễ bị tổn thương trong nền kinh tế. Hiện ngành nông, lâm, thủy sản đang tạo 34,5% số việc làm cho toàn nền kinh tế, do đó, việc Nhà nước kích cầu vào nhóm này không chỉ có hiệu quả kinh tế mà còn có hiệu quả về mặt xã hội.

Nhóm ngành gộp xây dựng và dịch vụ xây dựng có hệ số lan tỏa 4,47; hệ số liên kết ngược 1,14, tỷ lệ nhập khẩu/tiêu dùng xấp xỉ bằng 0, tỷ trọng trong tổng GDP cả nước khoảng 4,36%9. Xét về lao động, theo số liệu điều tra doanh nghiệp năm 2018, toàn bộ phân ngành xây dựng và dịch vụ xây dựng chiếm khoảng 11,33% tổng lao động chính thức của cả nước (nếu tính cả khu vực phi chính thức thì ngành xây dựng chiếm 8,4% lao động cả nước). Do đó, nếu ngành này tăng trưởng tốt, sẽ tác động tích cực tới kích thích tăng trưởng của các ngành khác cũng như mang lại hiệu quả về mặt sử dụng lao động và tạo việc làm. Đồng thời, đây cũng là nhóm ngành rất phù hợp để tăng chi tiêu công, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa tạo đột phá về phát triển hạ tầng.

Nhóm ngành dịch vụ vận tải mặc dù có tỷ trọng trong GDP chỉ chiếm khoảng 2,17%10 nhưng lại có hệ số liên kết ngược và hệ số lan tỏa lớn (1,18 và 4,86). Đây cũng là ngành có tính chất hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp (liên kết xuôi lớn) và tạo ra 3,5% việc làm cho toàn nền kinh tế. Việc kích cầu hỗ trợ nhóm ngành này không chỉ có ý nghĩa kích cầu thông qua liên kết ngược mà còn hỗ trợ các ngành nghề khác giảm chi phí sản xuất, kinh doanh vượt qua khó khăn do dịch bệnh.

Tương tự, ngành dịch vụ viễn thông là ngành then chốt trong việc thực hiện chiến lược kinh tế số cũng có hệ số lan tỏa lớn (4,18). Kích cầu và hỗ trợ ngành viễn thông không chỉ có tác động trong ngắn hạn mà còn có ý nghĩa trong dài hạn tương tự như nhóm ngành xây dựng.

Nhóm ngành khác như dệt may, da giày, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa là những ngành tạo việc làm chính cho nền kinh tế. Ngành dệt may, da giày là nhóm ngành sử dụng nhiều lao động (ví dụ ngành sản xuất trang phục chiếm khoảng 14,24% tổng lao động, ngành sản xuất giày dép chiếm 7,89% lao động trong doanh nghiệp). Đây cũng là nhóm hàng có định hướng xuất khẩu với tỷ lệ lượng tiêu dùng trong nước rất khiêm tốn so với xuất khẩu (chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng trang phục gấp 7,1 lần so với tiêu dùng trong nước; đối với nhóm ngành giày dép tỷ lệ này là 6,5 lần). Tuy nhiên, trong phân ngành dệt may có một số nhóm ngành có hệ số nhập khẩu cao (ví dụ: ngành sản phẩm dệt khác nhập khẩu gấp 2,5 lần tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu; ngành sợi, vải dệt thoi, sản phẩm dệt hoàn thiện nhập khẩu gấp hơn 2 lần), do đó trước mắt chỉ tập trung kích cầu vào những phân ngành có tỷ lệ nhập khẩu thấp trong nhóm này như: Trang phục các loại bao gồm trang phục bằng vải dệt thoi, dệt kim, đan móc, da thuộc, da tổng hợp (nhập khẩu 3%, hệ số lan tỏa 4,54); giầy, dép và dịch vụ sản xuất giầy, dép (nhập khẩu 4%, hệ số lan tỏa 4,24). Giải pháp căn bản vẫn là đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khơi thông xuất khẩu, tìm kiếm đầu ra.

Với cách thức tiếp cận theo từng ngành như tính toán trên đây, để tăng trưởng thêm 3 điểm % so với kịch bản cơ sở (Chính phủ dự tính là 2%) thì gói kích cầu cần khoảng 250 nghìn tỷ đồng. Như vậy, nếu Chính phủ có thể thực sự giải ngân hết nguồn vốn đầu tư công sẵn có cho năm 2020 theo cách thức hiệu quả nhất thì việc duy trì tăng trưởng khoảng 5% là tương đối khả thi.

Đề xuất các giải pháp hỗ trợ

Như đã phân tích ở trên, các giải pháp kích cầu cần tập trung vào những ngành có hệ số lan tỏa lớn nhưng tỷ trọng nhập khẩu thấp. Tuy nhiên, với từng các nhóm ngành sản phẩm khác nhau cần có cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, đối với những ngành sản phẩm có thể lưu trữ hoặc có tính chất công thì hiệu quả nhất là Chính phủ đứng ra mua các sản phẩm này để tăng cầu, ví dụ tăng đầu tư công cho ngành giao thông vận tải, ngành năng lượng, nông nghiệp,... Xây dựng nhà ở xã hội, các công trình xây dựng chuyên dụng,... chính là để kích cầu theo hướng này. Đối với các sản phẩm công nghiệp có tính lưu trữ lâu dài, doanh nghiệp có thể ký hợp đồng mua lại với Chính phủ, theo đó, trước mắt, Chính phủ tăng mua các sản phẩm của doanh nghiệp để tăng nhu cầu sản xuất cho doanh nghiệp, và khi nền kinh tế trở lại bình thường, doanh nghiệp cam kết sẽ mua lại các sản phẩm mà Chính phủ đã mua trước đó. Đối với các sản phẩm còn lại (nông sản, dịch vụ,...) thì cách thức hiệu quả nhất là giảm thuế và giảm phí cho doanh nghiệp. Các giải pháp như giảm VAT, giảm lãi suất, giảm chi phí tiếp cận dịch vụ công của nhà nước,... là cần thiết.


Số liệu tại Bảng 2 cho thấy, những ngành sản phẩm của nền kinh tế nước ta có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu trên 50% và tỷ trọng các ngành này trong nền kinh tế chiếm khoảng 30% GDP. Đặc biệt, một số ngành trong nhóm này có hệ số lan tỏa cao; trong đó có một số ngành có hệ số liên kết ngược cao hơn mức trung bình của nền kinh tế và có hệ số lan tỏa bình quân là 5. Cụ thể, có một số ngành quan trọng đối với sản xuất và đời sống như: Plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh, máy chuyên dụng, nguyên nhiên liệu đầu vào, sản phẩm dệt, sản phẩm kim loại màu, kim loại đúc sẵn, dầu mỡ động thực vật chế biến, sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi máy tính, thiết bị điện, dây dẫn, xe có động cơ (trừ ô tô),… có hệ số lan tỏa và liên kết ngược cao, đồng nghĩa với khả năng tạo ra hiệu ứng lan tỏa tốt với tăng trưởng của các ngành khác và toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, những ngành này lại có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu cao, tỷ lệ tiêu dùng so với chi phí đầu vào trung gian thấp, đồng nghĩa với việc:

(1) Phần lớn nhập khẩu các nhóm hàng này phục vụ cho hoạt động sản xuất thay vì tiêu dùng cuối cùng; (2) Các nhóm hàng này phụ thuộc lớn vào nhập khẩu.

Cụ thể, với nhóm hàng máy chuyên dụng, hệ số lan tỏa là 6,31; hệ số liên kết ngược là 1,43, tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 10% so với chi phí đầu vào trung gian, nhưng tỷ lệ nhập khẩu lớn gấp 8,75 lần so với tiêu dùng và xuất khẩu. Tương tự, nhóm ngành sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi có hệ số lan tỏa là 5,09; hệ số liên kết ngược là 1,23; tỷ lệ tiêu dùng chiếm khoảng 42% so với chi phí sản xuất trung gian; nhưng nhập khẩu lớn gấp 1,61 lần so với tiêu dùng. Đối với nhóm ngành dầu, mỡ động, thực vật chế biến, hệ số lan tỏa lên tới 11,97; hệ số liên kết ngược 2,00; tỷ lệ tiêu dùng/chi phí đầu vào trung gian chỉ 0,24; nhưng tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu lại gấp tới hơn 1,61 lần.

Những chỉ số này cho thấy, nền kinh tế nước ta rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài, sản xuất phụ thuộc nặng vào nhập khẩu, đặc biệt là những ngành có độ lan tỏa lớn đều phụ thuộc vào nhập khẩu. Đây chính là dư địa tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong những năm tới đây: Tự chủ được nguyên nhiên liệu sản xuất được 1 đồng các ngành hàng nhập khẩu này có thể tạo ra 5 đồng GDP cho nền kinh tế. Do đó, trước mắt cần lựa chọn những ngành có khả năng thay thế nhập khẩu nhất (những ngành Việt Nam có lợi thế, có năng lực có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu) trong các ngành ở Bảng 2 để thực hiện các chính sách nội địa hóa. Việc thay thế dần các sản phẩm này không chỉ có hiệu quả kinh tế cao mà còn làm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước nguy cơ đứt gãy nguồn cung trong tương lai.

Kết luận

Đại dịch Covid-19 đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đối với kinh tế thế giới và nước ta. Nền kinh tế thế giới được dự đoán sẽ suy thoái trong dài hạn, nhu cầu của các nước nhập khẩu chủ yếu hàng hóa từ Việt Nam khó phục hồi trong ngắn hạn do đó, trong thời gian tới, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.

Tăng đầu tư công có thể làm gia tăng tổng cầu trong ngắn hạn thông qua khuyến khích tăng đầu tư tư nhân và giảm thất nghiệp, giúp duy trì sản xuất để đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, nhất là trong các ngành có tỷ trọng lao động cao đang chịu suy giảm nặng nề từ xuất khẩu đó là nông nghiệp, công nghiệp chế biến (dệt may, da giày), xây dựng. Tăng đầu tư công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế cũng sẽ giúp tăng sản lượng của các ngành trong dài hạn nhờ vào nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế.

Bài viết chỉ ra rằng, nếu sử dụng nguồn lực hiện có vào đúng ngành, lĩnh vực và đúng phương thức thì hiệu quả kinh tế - xã hội sẽ tăng lên và việc duy trì tăng trưởng khoảng 4 - 5% là có thể đạt được.

Bên cạnh đó, đối với một số ngành cần có các chính sách thay thế dần nhập khẩu để tăng hiệu quả của nền kinh tế và giảm bớt tính dễ tổn thương của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là rủi ro đứt gãy nguồn cung.


1 Báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý II/2020 của Ban Kinh tế Trung ương.

2Có tài sản đảm bảo hoặc có tình hình tài chính hoặc phương án kinh doanh tốt,....

3 Theo đó, VAT sẽ được giảm xuống còn 16% so với mức 19% trước đó trong vòng 6 tháng kể từ ngày 1/7. Ngoài ra, mức VAT áp dụng cho hầu hết thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu cũng được giảm từ 7% xuống 5%.

4 Liên kết ngược dùng để đo mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao, có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn, khi ngành đó phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của toàn bộ các ngành cung ứng sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ hệ thống.

5 Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành như là nguồn cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết xuôi của ngành đó càng lớn, càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó đối với các ngành còn lại.

6 Tác giả áp dụng phương pháp tính toán Rasmussen. Do cho đến nay vẫn chưa có Bảng cân đối liên ngành mới, nên tác giả sử dụng Bảng cân đối liên ngành gần nhất là năm 2016. Mặc dù cơ cấu nền kinh tế năm 2020 có thể khác biệt so với năm 2016, tuy nhiên, theo lý thuyết thì sử dụng Bảng I-O trong vòng 5 năm để tính toán các chỉ số liên ngành là có thể chấp nhận được.

7 Tăng cầu tiêu dùng cuối cùng của một ngành lên một đơn vị thì sẽ làm cầu hàng hóa của các ngành khác trong nền kinh tế tăng lên bao nhiêu đơn vị.

8 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.

9 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.

10 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.


TS. Nguyễn Tú Anh

Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp - Ban Kinh tế Trung ương

Tạp chí Ngân hàng số 3+4/2021

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng