Kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì đà phục hồi song đứng trước nhiều thách thức từ tác động của kinh tế thế giới

Nghiên cứu - Trao đổi
Sau cú sốc bị ảnh hưởng tương đối nặng nề từ đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới lại tiếp tục đối diện với một giai đoạn khó khăn, thách thức không kém khi đại dịch Covid-19 vẫn chưa kết thúc, việc giải quyết những hậu quả do dịch bệnh để lại cộng hưởng với những tác động xung đột giữa Nga - Ukraine khiến lạm phát toàn cầu leo thang, cản trở đà phục hồi của các nền kinh tế toàn cầu.
aa

Sau cú sốc bị ảnh hưởng tương đối nặng nề từ đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới lại tiếp tục đối diện với một giai đoạn khó khăn, thách thức không kém khi đại dịch Covid-19 vẫn chưa kết thúc, việc giải quyết những hậu quả do dịch bệnh để lại cộng hưởng với những tác động xung đột giữa Nga - Ukraine khiến lạm phát toàn cầu leo thang, cản trở đà phục hồi của các nền kinh tế toàn cầu. Điều này khiến việc lựa chọn chính sách hướng tới mục tiêu cân bằng giữa phục hồi tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô trở nên thách thức hơn. Xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ ngày càng rộng khiến thị trường tài chính toàn cầu biến động, nguy cơ suy thoái, “đình lạm” (stagflation) kinh tế tại một số quốc gia hiện hữu hơn.

Với một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, những biến động từ tình hình kinh tế thế giới sẽ có tác động nhất định đến kinh tế trong nước. Bên cạnh nguy cơ lạm phát do giá dầu và giá lương thực thế giới tăng cao, một vấn đề cần lưu tâm đó là các nền kinh tế lớn cũng bắt đầu tăng lãi suất trở lại, điều này có thể sẽ khiến dòng vốn rút khỏi các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

1. Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2022

1.1. Một số diễn biến chính

Kinh tế thế giới đối mặt với nhiều bất trắc, tăng trưởng chậm lại rõ rệt trong 6 tháng đầu năm 2022. Các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế trong khi điều chỉnh tăng dự báo lạm phát chủ yếu do nguy cơ xung đột giữa Nga - Ukraine gây gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Kinh tế toàn cầu được dự báo tăng trưởng trong khoảng từ 2,9% - 3,6% trong năm 2022, thấp hơn mức tăng trưởng của năm 2021. Cụ thể: Tháng 4/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 lần lượt xuống còn 3,6% và 3,2%, giảm 0,8 và 0,9 điểm phần trăm so với mức dự báo được đưa ra trước đó. Nguyên nhân chủ yếu do tác động từ cuộc xung đột Nga - Ukraine, diễn biến tăng của lạm phát và những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid-19. Gần đây nhất, vào tháng 5/2022, Liên hợp quốc cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu xuống mức 3,1%, thấp hơn 0,9 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2022; lạm phát toàn cầu được dự báo tăng lên 6,7%, cao hơn gấp đôi so với mức trung bình 2,9% trong giai đoạn từ 2010 - 2020. (Đồ thị 1)

Đồ thị 1: Các tổ chức quốc tế liên tục điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu


Nguồn: IMF, WB

Lạm phát tăng nhanh trên toàn cầu; lạm phát tại nhiều nước tiếp tục đạt mức kỷ lục, đặc biệt tại các nước phát triển. Cụ thể, lạm phát tháng 5/2022 tại Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên mức kỷ lục 8,6% - mức cao nhất trong hơn 40 năm; tại khu vực đồng EUR, lạm phát lập mức kỷ lục mới là 8,1%; tại Thái Lan, lạm phát ở mức 7,1% - cao nhất trong 13 năm qua; lạm phát tại Hàn Quốc cũng ở mức cao nhất 14 năm qua (5,4%); tại Nga, lạm phát cũng leo lên mức kỷ lục trong vòng 20 năm là 17,49% trong tháng 4/2022; một số quốc gia tại châu Phi, Mỹ La-tinh lạm phát đều ở mức từ 02 con số trở lên... Giá hàng hóa thế giới tăng, trong đó đặc biệt là giá dầu, giá lương thực - thực phẩm cộng hưởng với tác động từ cuộc xung đột ở Ukraine gây ra sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu làm gia tăng chi phí sản xuất là nguyên nhân chính đẩy lạm phát tăng cao trên toàn cầu.

Xung đột Nga - Ukraine khiến chuỗi cung ứng tiếp tục bị gián đoạn, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, thương mại và niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường toàn cầu; từ đó cản trở đà phục hồi kinh tế. Trong khi đại dịch Covid-19 đã để lại cho kinh tế toàn cầu hai mối lo là nguy cơ lạm phát cao, tăng trưởng thấp thì cuộc xung đột Nga - Ukraine dường như đang khiến cho mối lo này trở nên trầm trọng hơn. Cuộc xung đột dẫn đến khủng hoảng giá năng lượng và lương thực tại một số quốc gia, đẩy lạm phát các nước tăng vọt. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã hạ dự báo tăng trưởng thương mại hàng hóa trong năm 2022 từ mức 4,7% xuống còn 3% vào tháng 4/2022.

Chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương (NHTW) bắt đầu thắt chặt dần thông qua nhiều biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát. Theo đó, các NHTW đẩy nhanh quá trình thu hẹp nới lỏng chính sách tiền tệ và tăng lãi suất. Đến cuối tháng 6/2022, trên toàn cầu có 166 lượt tăng lãi suất và chỉ có 06 lượt giảm (trong đó có Trung Quốc, Nga). Đáng chú ý, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng tốc điều chỉnh lãi suất thêm 0,5% trong tháng 5/2022 - mức tăng lãi suất mạnh nhất của Fed kể từ tháng 5/2000. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm 2022, Fed đã tăng lãi suất liên tiếp 03 lần với tổng mức tăng là 1,5%. Hiện mức lãi suất tham chiếu ở mức 1,5% - 1,75%. NHTW châu Âu (ECB) phát tín hiệu dừng chương trình mua tài sản vào quý III/2022 và xác nhận có thể có một đợt tăng lãi suất đầu tiên sau đó (dự kiến vào tháng 7/2022).

1.2. Triển vọng kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm 2022

Trong thời gian tới, kinh tế thế giới dự kiến tăng trưởng chậm lại; rủi ro lạm phát tiếp tục duy trì tại nhiều nước do tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng trong khi chính sách tiền tệ thắt chặt thường sẽ có độ trễ nhất định. Sự suy giảm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc do chính sách “zero-Covid” làm cản trở đà phục hồi của kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, những hậu quả và bất ổn gây ra từ đại dịch Covid-19, xung đột Nga - Ukraine vẫn đang còn hiện hữu. Nhiều tổ chức cũng đã cảnh báo rủi ro “đình lạm” ở một số quốc gia.

2. Kinh tế trong nước

2.1. Diễn biến kinh tế


Kinh tế vĩ mô trong nước phục hồi mạnh mẽ, lạm phát được kiểm soát nhưng có xu hướng tăng nhanh. Trong 6 tháng đầu năm 2022, kinh tế phục hồi rõ nét nhờ chính sách mở cửa du lịch, bình thường hóa các hoạt động kinh tế của Chính phủ và tiến trình phổ quát vắc-xin. Theo đó, tăng trưởng GDP đạt 6,42%, cao hơn nhiều so với mức 2,04% của 6 tháng cùng kỳ năm 2021. Tiêu dùng cuối cùng tăng 6,06% so với cùng kỳ năm 2021; tích lũy tài sản tăng 3,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,10%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,41%; nền kinh tế xuất siêu 0,71 tỷ USD; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tăng 8,9%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu đề ra nhưng áp lực thời gian tới khá lớn. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,25% so với cùng kỳ.

Thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) diễn biến tích cực. Lũy kế tổng thu NSNN 6 tháng đầu năm 2022 đạt 932,9 nghìn tỷ đồng, bằng 66,1% dự toán năm; tổng chi ước đạt 713 nghìn tỷ đồng, bằng 40% dự toán năm. Cân đối NSNN duy trì ở trạng thái bội thu 220 nghìn tỷ đồng.

Thị trường tiền tệ, tín dụng về cơ bản ổn định. Tín dụng tiếp tục tăng phù hợp với diễn biến tích cực của nền kinh tế. Đến cuối tháng 6/2022, tín dụng tăng trên 9% so với cuối năm 2021, góp phần hỗ trợ tích cực vào tăng trưởng kinh tế; cơ cấu tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Lãi suất huy động và tỷ giá tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và nằm trong dự tính trước đó của Ngân hàng Nhà nước.

2.2. Tác động từ kinh tế thế giới đến hoạt động kinh tế trong nước và khuyến nghị chính sách

Như đề cập ở trên, các chỉ số kinh tế vĩ mô trong nước vẫn duy trì tích cực, nền kinh tế trở lại trạng thái hoạt động sản xuất bình thường mới, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát vẫn được kiểm soát, tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế... tuy nhiên, rủi ro từ bên ngoài có thể cản trở đà phục hồi kinh tế.

Theo đó, kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng suy giảm, một số quốc gia có thể rơi vào tình trạng “đình lạm”, các NHTW thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, USD tăng giá là các yếu tố tác động không nhỏ đến kinh tế trong nước khi Việt Nam là quốc gia có độ mở kinh tế lớn. Điều này khiến công tác điều hành của Chính phủ đối diện với nhiều thách thức.

Có thể thấy, nguy cơ lạm phát vẫn là rủi ro lớn nhất của nền kinh tế hiện nay. Áp lực lạm phát trong thời gian tới là rất lớn, xuất phát từ các yếu tố sau: Thứ nhất, chi phí đẩy đến từ việc giá cả đầu vào tăng, đặc biệt là giá xăng dầu liên tục biến động và ở mức cao làm gia tăng áp lực lạm phát trong nước. Bên cạnh đó, giá lương thực trong nước tiếp tục chịu sức ép của xu hướng tăng giá từ mặt hàng thế giới. Lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,44%, chủ yếu do giá hàng hóa thế giới tăng cao (giá dầu, lương thực...) trong khi giá dầu thế giới năm 2022 dự báo bình quân vẫn neo giữ ở mức cao, khoảng 110 USD/thùng, giá lương thực, thực phẩm trong nước có thể bị tác động mạnh hơn trong những tháng cuối năm 2022, đặc biệt là giá thịt lợn. Điều này khiến dư địa kiểm soát lạm phát dưới 4% đang dần bị thu hẹp. Thứ hai, việc triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được đẩy nhanh góp phần phục hồi kinh tế cũng là một yếu tố khiến gia tăng lạm phát. Thứ ba, lạm phát kỳ vọng có thể được đẩy lên...

Việc lạm phát gia tăng sẽ tác động đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Với đà phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc khiến nhu cầu thế giới giảm, điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi giá cả hàng hóa đầu vào tăng khiến nguồn nguyên vật liệu đầu vào cũng gia tăng, từ đó ảnh hưởng hoạt động sản xuất, đầu tư trong nước và kim ngạch xuất khẩu do chi phí đầu vào gia tăng.

Nguy cơ đại dịch Covid-19 có thể quay trở lại với những biến thể mới. Trong thời gian gần đây, biến thể mới của virus corona vẫn tiếp tục xuất hiện tại nhiều quốc gia, việc biến thể phụ BA.5 được phát hiện đã xâm nhập vào Việt Nam cho thấy mức độ rủi ro và nguy cơ đại dịch quay lại là rất lớn. Từ đó, sẽ ảnh hưởng đến đời sống người dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh và đà phục hồi của nền kinh tế.

Mặc dù kinh tế Việt Nam khởi sắc và bứt phá trong 6 tháng đầu năm 2022 nhưng những rủi ro từ bên ngoài vẫn ngày càng gia tăng, do đó, để tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cần được đẩy nhanh hơn nữa. Tuy nhiên, trong bối cảnh rủi ro lạm phát gia tăng và sự thay đổi chính sách điều hành của các nước như hiện nay, việc hỗ trợ phục hồi kinh tế cần dựa chủ yếu vào chính sách tài khóa, thương mại, đầu tư; trong khi đó, chính sách tiền tệ cần điều hành thận trọng để kiểm soát lạm phát, đối phó với những bất ổn tài chính. Chính phủ cần tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Có như vậy, mới bảo đảm kinh tế phục hồi bền vững vừa kiểm soát được lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Cũng đồng quan điểm này, IMF đã đưa ra khuyến nghị cho Việt Nam. Theo đó, chính sách tài khóa cần đóng vai trò chủ đạo và điều chỉnh theo diễn biến của sự hồi phục kinh tế. Chính sách tiền tệ cần nhanh chóng thích ứng với rủi ro lạm phát; chú trọng giám sát, kịp thời xử lý nợ xấu và các rủi ro của thị trường bất động sản. Đồng thời, cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng. Việc cần ưu tiên là tăng kỹ năng của lực lượng lao động, thúc đẩy chuyển đổi số, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

ThS. Mai Phong Sơn




https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Xem thêm
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng