Hoạt động tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Một số rủi ro tiềm ẩn

Nghiên cứu - Trao đổi
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là một tổ chức thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước, việc nghiên cứu quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách và cần thiết.
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích các rủi ro trong hoạt động tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) giai đoạn 2015 - 2023, với sự gia tăng những rủi ro tiềm ẩn bao gồm: Rủi ro vỡ nợ, rủi ro thanh khoản, rủi ro hệ thống, rủi ro quản lý, rủi ro tập trung theo ngành (đặc biệt là ngành xây dựng) và rủi ro đến từ khách hàng vay vốn (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn Nhà nước). Rủi ro tín dụng đầu tư tại VDB xuất phát từ việc gia tăng nợ quá hạn từ khách hàng; khách hàng đã không trả được nợ theo cam kết, làm tăng chi phí huy động vốn và giảm khả năng quay vòng vốn, ảnh hưởng đến các rủi ro khác của ngân hàng. Bài viết này tác giả muốn nhấn mạnh sự cần thiết của việc cải thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng, trong đó cần coi trọng việc giám sát khoản vay và quy trình thẩm định dự án ngay từ đầu để bảo đảm sự phát triển bền vững của VDB trong tương lai.

Từ khóa: Tín dụng đầu tư, rủi ro tín dụng, VDB.

THE INVESTMENT CREDIT ACTIVITIES AT THE VIETNAM DEVELOPMENT BANK: POTENTIAL RISKS

Abstract: The article analyzes the risks in investment credit activities at the Vietnam Development Bank (VDB) during the period from 2015 to 2023, highlighting an increase in many potential risks, including: default risk, liquidity risk, systematic risk, management risk, industry concentration risk (especially in the construction industry), and risks from borrowers (especially state-funded enterprises). Investment credit risk at VDB arises from the increased overdue debt from customers, who have not been able to repay their debt as committed, resulting in higher capital mobilization costs and reduced capital turnover ability, which in turn affects other risks of the bank. In this article, the author emphasizes the need to improve credit risk management, with particular focus on the loan monitoring and project appraisal processes from the outset, to ensure the sustainable development of VDB in the future.

Keywords: Investment credit, credit risk, Vietnam Development Bank.

1. Lời mở đầu

Rủi ro là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động của con người nói chung và các hoạt động kinh tế, đầu tư nói riêng. Do vậy, việc xem xét đến rủi ro là yếu tố sống còn với mọi hoạt động trong nền kinh tế, một tổ chức hay với mỗi cá nhân. Đối với hoạt động của một ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng lại càng là thước đo chính xác nhất có liên quan chặt chẽ và sống còn đối với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng nói chung, trong đó có Ngân hàng Phát triển nói riêng.

VDB là một tổ chức thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước, việc nghiên cứu quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết bởi tính rủi ro trong các hoạt động tín dụng chính sách của Nhà nước, cũng như từ vai trò to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế quốc dân và hơn nữa, đó là sự tồn tại và phát triển của chính bản thân VDB, cũng như bảo toàn và tăng trưởng vốn mà Nhà nước giao.

Tuy nhiên, thực tế rủi ro tín dụng tại VDB còn ở mức cao, do kết quả hoạt động tăng trưởng tín dụng thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, tỉ lệ nợ quá hạn và nợ xấu trong tín đầu tư chưa được cải thiện. Nếu không đánh giá chính xác rủi ro tín dụng đầu tư tại VDB, thì sự khó khăn trong hoạt động tín dụng vẫn tiếp diễn, việc quản lý và nhận diện rủi ro sẽ rất phức tạp, làm ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, thậm chí có thể đe dọa tới sự an toàn của hệ thống VDB. Không những vậy, chính sách tín dụng tại VDB cũng là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô hằng năm của Nhà nước, việc hoạt động không hiệu quả sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế quốc dân.

2. Lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phát triển

Khái niệm tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Phát triển

Trong luận án Tiến sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước”, tác giả Trần Công Hòa đã nghiên cứu lĩnh vực cụ thể hơn của tín dụng Nhà nước đang được thực hiện tại VDB cho rằng, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hình thức tín dụng để tài trợ đầu tư các dự án phát triển thuộc lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích; thông qua các quan hệ vay trả, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Tác giả Trần Công Hòa cũng nhận định, ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước, Chính phủ các nước thường sử dụng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước như một công cụ nhằm tài trợ cho các dự án phát triển để đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

Tương tự như vậy, trong luận án Tiến sĩ với đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng đầu tư phát triển của VDB”, tác giả Nguyễn Cảnh Hiệp đưa ra quan niệm về tín dụng đầu tư phát triển: “Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (hay tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước) là quan hệ vay - trả giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội, gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tín dụng (quỹ cho vay) nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển trên nguyên tắc có hoàn trả trực tiếp”.

Theo Báo cáo nghiên cứu của Phòng Chiến lược toàn cầu hóa và phát triển, UNCTAD (2016) về “Vai trò của các ngân hàng phát triển trong việc thúc đẩy tăng trưởng và bền vững phát triển ở phía Nam”, VDB cung cấp tín dụng dài hạn cho các hoạt động đầu tư phát triển và các dự án được lựa chọn bởi nhà nước tại các nước đang phát triển, với những mức độ ưu đãi nhất định.

Tựu chung lại, có thể hiểu: “Tín dụng đầu tư phát triển tại VDB là quan hệ vay - trả giữa Nhà nước mà đại diện là VDB với các chủ thể trong xã hội, gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tín dụng (quỹ cho vay) nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển trên nguyên tắc có hoàn trả trực tiếp”.

Khái niệm rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phát triển

Joel Bessis đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng trong cuốn Quản trị rủi ro trong ngân hàng: “Rủi ro tín dụng là rủi ro quan trọng nhất trong ngân hàng. Đó là rủi ro đối tác sẽ vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Theo các quy định, rủi ro tín dụng chia thành một vài thành phần rủi ro tín dụng: Rủi ro vỡ nợ; rủi ro giảm uy tín; rủi ro nguy cơ, tức là sự bất trắc về giá trị tương lai của khoản tiền có thể thua lỗ vào thời điểm vỡ nợ chưa biết; thua lỗ do vỡ nợ - thường ít hơn lượng tiền phải trả bởi vì sự hồi phục nhờ bảo đảm hay thế chấp của bên thứ ba; rủi ro đối tác là hình thức rủi ro tín dụng cụ thể xuất phát từ phái sinh, có thể chuyển đổi từ đối tác này sang đối tác khác”.

A.Saunder và H.Langge cho rằng: “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian”.

Theo Timothy W.Koch (Bank Management, 8th Edition 2014), một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.

Với các quan niệm như trên, tác giả cho rằng: Rủi ro tín dụng đầu tư của Ngân hàng Phát triển là khả năng xảy ra tổn thất do người vay vốn tín dụng đầu tư phát triển không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình theo điều khoản đã cam kết với Ngân hàng Phát triển.

3. Kết quả nghiên cứu

3.1. Tình hình dư nợ tín dụng đầu tư tại VDB

Về quy mô và tăng trưởng tín dụng

Bảng 1. Dư nợ tín dụng đầu tư tại VDB giai đoạn 2015 - 2023

Đơn vị tính: Tỉ đồng

Hoạt động tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Một số rủi ro tiềm ẩn
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023

Thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao, ngay từ khi thành lập cho đến nay, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua VDB đã phát huy vai trò trong việc thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kể từ khi thành lập VDB từ năm 2006 đến năm 2023, VDB đã duyệt cho vay 700 dự án mới với tổng số vốn giải ngân cho nền kinh tế là 213.922 tỉ đồng. Trong thời gian này, VDB cũng cho vay để thực hiện các chương trình kinh tế và dự án trọng điểm của Chính phủ như Chương trình kiên cố hóa kênh mương, tôn nền vượt lũ với lãi suất 0% với hơn 47.818 tỉ đồng đã được giải ngân.

Hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước đã có mức tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2006 - 2023 đạt xấp xỉ 3%/năm và chia thành hai giai đoạn rất rõ ràng. Giai đoạn 1: Từ năm 2006 - 2013 chứng kiến sự tăng lên mạnh mẽ của dư nợ với bình quân tăng trưởng là 13,7%/năm, dư nợ năm 2013 đã gấp 2,5 lần so với năm 2006 (thời điểm mới chuyển từ Quỹ Hỗ trợ phát triển sang VDB). Giai đoạn 2: Từ năm 2014 - 2023, trái ngược hoàn toàn khi tăng trưởng tín dụng âm, bình quân trên 9,9%/năm, dư nợ giảm dần hằng năm do gặp khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, một số dự án có quy trình phức tạp, yêu cầu bảo đảm về tính minh bạch và hiệu quả sử dụng vốn đôi khi khiến cho việc giải ngân trở nên chậm trễ. Mặt khác, từ năm 2020 đến nay, nền kinh tế bị ảnh hưởng rất lớn bởi đại dịch Covid-19, chiến tranh thương mại giữa các nước lớn trên thế giới, tình hình bất ổn chính trị trong nước và thế giới… do vậy, việc giải ngân vốn ra nền kinh tế cũng khó khăn hơn rất nhiều so với giai đoạn trước đó.

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua VDB đã phát huy vai trò trong việc thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nguồn ảnh: Internet)
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua VDB đã phát huy vai trò trong việc thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nguồn ảnh: Internet)

Phần lớn những dự án vay vốn tín dụng đầu tư tại VDB có tổng mức đầu tư lớn, thời gian đầu tư và thu hồi vốn kéo dài nên việc tiếp cận được với nguồn vốn này đã giúp chủ đầu tư có thể thực hiện nhiều dự án lớn, quan trọng như Thủy điện Sơn La, Thủy điện Lai Châu, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Đạm Ninh Bình, Nhà máy điện gió Bạc Liêu, Nhà máy sữa TH, Nhà máy điện gió Trung Nam…

Các dự án, chương trình, ngành, nghề cho vay

- Về các ngành, nghề, lĩnh vực cho vay:

Biểu đồ 1. Tỉ trọng cho vay theo ngành, nghề, lĩnh vực giai đoạn 2015 - 2023

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Biểu đồ 1 cho thấy: (i) Tất cả các ngành nghề đều có dư nợ giảm dần theo tổng dư nợ chung của toàn hệ thống, trong đó nông, lâm, thủy sản là ngành có dư nợ giảm mạnh, từ 29.759 tỉ đồng năm 2015 xuống còn 1.737 tỉ đồng năm 2023 và giảm mạnh nhất vào năm 2019 với dư nợ chỉ còn 5.968 tỉ đồng; tỉ lệ tăng trưởng âm liên tục, từ -17,4% năm 2016 đến -8,0% năm 2023, bình quân mỗi năm giảm 10,4%. Trong khi đó, tỉ lệ giảm bình quân các ngành công nghiệp, xây dựng là 5,42%, giao thông 5,49%, thương mại, dịch vụ là 6,63%, y tế, giáo dục 6,94%, khác 8,39%; (ii) Công nghiệp, xây dựng luôn chiếm tỉ lệ dư nợ cao nhất so với các ngành khác trong suốt giai đoạn 2015 - 2023, chiếm bình quân 82,8% dư nợ (năm 2023 chiếm 91,4% tổng dư nợ tín dụng đầu tư); tuy nhiên, dư nợ giảm dần từ năm 2015 (71.810 tỉ đồng) đến năm 2023 (36.781 tỉ đồng). Đây là điều hoàn toàn có thể lý giải, bởi Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển, cần rất nhiều vốn dành cho phát triển cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp mũi nhọn có đóng góp rất lớn vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, mà VDB là một trong những kênh quan trọng để Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm đó.

- Về cơ cấu cho vay theo loại hình doanh nghiệp/tổ chức vay vốn:

Biểu đồ 2. Cơ cấu cho vay theo loại hình doanh nghiệp, tổ chức vay vốn giai đoạn 2015 - 2023

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Biểu đồ 2 cho thấy, sự thay đổi về tỉ trọng dư nợ của các thành phần trong giai đoạn 2015 - 2023. Dư nợ có xu hướng giảm chung, đặc biệt ở các khoản vay dành cho chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhà nước (DNNN), công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có vốn nước ngoài chi phối, với tỉ trọng giảm từ 32% xuống 30%, tương đương giảm từ 33.539 tỉ đồng xuống 12.183 tỉ đồng. Ngược lại, doanh nghiệp ngoài nhà nước có dư nợ cao nhất, tăng từ 47.837 tỉ đồng năm 2015 lên 48.247 tỉ đồng năm 2016, sau đó giảm dần xuống 27.510 tỉ đồng năm 2023, với tỉ trọng tăng từ 45% lên 68%. Đối với doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình và cá thể, số dư nợ giữ mức rất thấp, ít biến động. Chính quyền địa phương chứng kiến mức giảm mạnh từ 23% xuống 1%, tương ứng giảm từ 24.267 tỉ đồng xuống 225 tỉ đồng. Các số liệu trên phản ánh sự giảm mạnh tổng dư nợ của VDB qua các năm và sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu tín dụng, với sự gia tăng tỉ trọng của doanh nghiệp ngoài nhà nước, nhấn mạnh vào chính sách tín dụng nhằm giảm rủi ro và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp cận nguồn vốn.

Về thời hạn cho vay

Biểu đồ 3. Cơ cấu cho vay tín dụng đầu tư theo thời hạn cho vay giai đoạn 2015 - 2023

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Biểu đồ 3 cho thấy: (i) Khoản vay trung hạn (8 - 12 năm) là loại hình vay phổ biến nhất và có dư nợ lớn nhất tại VDB trong giai đoạn 2015 - 2023 chiếm tỉ trọng lớn nhất, dao động từ 46% đến 55% và tỉ trọng giảm nhẹ từ 55% năm 2018 xuống 48% năm 2023; (ii) Khoản vay ngắn hạn (3 - 8 năm) chiếm tỉ trọng ổn định và có mức dư nợ lớn thứ hai, tỉ trọng ổn định hơn so với các nhóm khác, dao động từ 22% đến 28%; (iii) Khoản vay dài hạn (trên 12 năm) mặc dù ít phổ biến hơn nhưng vẫn giữ một tỉ trọng đáng kể, đặc biệt là năm 2019, chiếm tới 28% tổng dư nợ tín dụng đầu tư.

Việc phân phối dư nợ như trên là hoàn toàn bình thường tại VDB, bởi VDB là ngân hàng thực hiện các chính sách tín dụng của Nhà nước trong từng thời kỳ, vì vậy, tỉ trọng của các khoản vay này thay đổi theo chu kỳ đầu tư, chẳng hạn như dư nợ năm 2019 tăng khi có nhiều dự án đầu tư lớn như xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, khu đô thị, hoặc dự án năng lượng mang tính dài hạn được triển khai thì tỉ trọng cho vay trên 12 năm tăng mạnh.

3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng đầu tư tại VDB

Bảng 2. Thực trạng nợ quá hạn tín dụng đầu tư tại VDB giai đoạn 2015 - 2023

Đơn vị tính: Tỉ đồng

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Biểu đồ 4: Dư nợ gốc quá hạn và dư nợ lãi quá hạn tại VDB giai đoạn 2015 - 2023

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Số liệu tại Bảng 2 và Biểu đồ 4 cho thấy, trong giai đoạn 2015 - 2023, VDB đã trải qua nhiều biến động đáng chú ý trong hoạt động tín dụng, đặc biệt liên quan đến vấn đề nợ quá hạn. Dư nợ gốc quá hạn tại VDB đã tăng lên một cách báo động, từ 6.813 tỉ đồng năm 2015 (chiếm 6,4% tổng dư nợ) lên 15.909 tỉ đồng năm 2023, tương ứng 39,5%. Đồng thời, dư nợ lãi quá hạn cũng chứng kiến sự gia tăng đáng kể, từ 4.961 tỉ đồng lên 22.942 tỉ đồng trong cùng giai đoạn, cho thấy không chỉ khoản gốc mà khoản lãi cũng gặp khó khăn trong việc thu hồi, dẫn đến có thể gây ra tác động tiêu cực đến khả năng tài chính của ngân hàng.

Tỉ lệ nợ quá hạn tăng mạnh từ 6,4% năm 2015 lên đỉnh điểm 47,6% năm 2022, trước khi giảm nhẹ xuống 39,5% năm 2023. Mặc dù có sự giảm nhẹ, tỉ lệ này vẫn nằm ở mức cao, phản ánh một phần của tổng dư nợ chưa được thu hồi đúng hạn. Tỉ lệ này cũng chỉ ra những rủi ro tiềm tàng mà ngân hàng phải đối mặt, khi phần lớn các khoản vay không mang lại nguồn thu dự kiến, gây áp lực lớn lên hoạt động kinh doanh của VDB.

Biểu đồ 5: Tỉ lệ dư nợ gốc quá hạn của VDB theo cơ cấu ngành, nghề kinh doanh

Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả
Nguồn: Báo cáo tài chính của VDB năm 2015 - 2023 và tính toán của tác giả

Xét theo ngành, nghề kinh doanh, ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỉ trọng dư nợ gốc quá hạn lớn nhất trong tổng số dư nợ gốc quá hạn, dao động từ 77,6% năm 2015 lên đỉnh điểm 90,8% năm 2021. Sự tập trung dư nợ quá hạn ở lĩnh vực này chỉ ra rằng các dự án xây dựng mà VDB tài trợ đang gặp khó khăn trong việc hoàn vốn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản và xây dựng luôn biến động mạnh. Ngành công nghiệp xây dựng vốn dĩ đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và có thời gian thu hồi vốn dài, điều này có thể dẫn đến rủi ro cao hơn trong việc quản lý tín dụng.

Các ngành khác như nông, lâm, thủy sản và thương mại, dịch vụ có tỉ lệ dư nợ quá hạn thấp hơn, nhưng vẫn ghi nhận những biến động. Tỉ lệ dư nợ quá hạn của ngành nông, lâm, thủy sản tăng từ 12,5% năm 2015 lên 16,2% năm 2017 trước khi giảm xuống 10,2% vào năm 2023. Điều này cho thấy, mặc dù không chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số dư nợ, các ngành này vẫn tiềm ẩn rủi ro do sự biến động của thị trường và điều kiện kinh tế chung. (Biểu đồ 5)

Xét theo tỉ trọng dư nợ gốc quá hạn theo loại hình doanh nghiệp, tổ chức vay vốn:

Về cơ cấu theo loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn Nhà nước chi phối (DNNN, công ty TNHH) chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ quá hạn. Tỉ trọng này tăng từ 29,5% năm 2015 lên 67,3% năm 2021, trước khi giảm xuống 51,2% vào năm 2023.

Ngược lại, dư nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty TNHH, công ty cổ phần) có xu hướng giảm dần từ 59,4% năm 2015 xuống còn 44,3% năm 2023, mặc dù tỉ trọng dư nợ quá hạn của nhóm doanh nghiệp này giảm, sự khó khăn trong việc trả nợ vẫn tồn tại, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt với nhiều thách thức về vốn và khả năng tiếp cận thị trường.

4. Một số rủi ro có thể xảy ra với VDB trong thời gian tới

Từ thực trạng trên cho thấy, có những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với VDB; vì vậy, việc nhận diện rủi ro là điều quan trọng hơn bao giờ hết, đặc biệt là đối với lĩnh vực tín dụng đầu tư. Những rủi ro tiềm ẩn bao gồm:

Thứ nhất, rủi ro vỡ nợ: Đây là rủi ro lớn nhất mà ngân hàng phải đối mặt, xảy ra khi khách hàng không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bao gồm cả gốc và lãi. Sự gia tăng nợ quá hạn tại VDB cho thấy, nhiều khách hàng không trả được nợ đúng hạn, làm giảm khả năng quay vòng vốn và ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng.

Thứ hai, rủi ro thanh khoản: Tỉ lệ nợ quá hạn tăng cao, khả năng thu hồi vốn của ngân hàng bị suy giảm, ảnh hưởng đến nguồn vốn để tài trợ cho các dự án mới và duy trì hoạt động tín dụng. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc bảo đảm dòng tiền cần thiết cho các hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, rủi ro tập trung: Qua phân tích cho thấy, ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỉ trọng lớn nhất trong các khoản dư nợ quá hạn, đặc biệt là với các dự án có thời gian thu hồi vốn dài và biến động lớn. Sự tập trung tín dụng vào một ngành cụ thể làm tăng rủi ro nếu ngành này gặp khó khăn, gây tổn thất lớn cho ngân hàng.

Thứ tư, rủi ro hệ thống: Do VDB thực hiện các chính sách tín dụng của Nhà nước, hiệu suất hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách kinh tế vĩ mô. Nếu các dự án được tài trợ bởi VDB không hiệu quả, sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

Thứ năm, rủi ro tín dụng đến từ khối doanh nghiệp nhà nước: Các doanh nghiệp có vốn Nhà nước chi phối thường gặp khó khăn trong việc quản lý và hoàn trả nợ, đặc biệt là các dự án đầu tư công bị chậm tiến độ hoặc kém hiệu quả. Điều này làm gia tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng và ảnh hưởng đến danh mục đầu tư.

Thứ sáu, rủi ro quản lý: Gia tăng nợ quá hạn cũng cho thấy, sự yếu kém trong quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng, bao gồm việc thẩm định dự án, giám sát khoản vay và thu hồi nợ. Nếu không có các biện pháp cải thiện kịp thời, ngân hàng sẽ tiếp tục đối diện với các tổn thất tài chính.

Để cải thiện tình hình, VDB cần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng, tăng cường giám sát các khoản vay và cải thiện quy trình thẩm định dự án. VDB cũng cần có các biện pháp hỗ trợ và tái cấu trúc các khoản vay có rủi ro cao, đặc biệt là trong các ngành và loại hình doanh nghiệp có tỉ trọng dư nợ quá hạn lớn. Nếu không có những cải thiện kịp thời, tình trạng nợ quá hạn có thể tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thanh khoản và sự phát triển bền vững của VDB trong tương lai./.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Cảnh Hiệp (2014), Quản lý rủi ro tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Tài chính.

2. Trần Công Hòa (2007), Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.

3. Ngân hàng Phát triển Việt Nam ( 2015 - 2023), Báo cáo tài chính 2015 - 2023.

4. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2021), Quyết định về việc quy định phân loại nợ tài sản có và cam kết ngoại bảng tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam, số hiệu 408/QĐ-NHPT, ngày 30/12/2021.

5. Joel Bessis. (2012), Quản trị rủi ro trong ngân hàng. Nxb Lao động - Xã hội.

6. Koch T. (2014), Bank management, Cengage Learning.

7. Saunders A. & Cornett M. M. (2011), Financial Institutions Management: A Risk Management Approach, 7th ed., New York: McGraw Hill Irwin.

8. UNCTAD (2016), The Role of Development Banks in Promoting Growth and Sustainable Development in the South.

Đào Quang Trường
Tổng Giám đốc VDB

Tin bài khác

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Quan điểm Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước kế thừa, phát huy, vận dụng và phát triển trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
RẠNG RỠ VIỆT NAM

RẠNG RỠ VIỆT NAM

Nhân kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết với tiêu đề "RẠNG RỠ VIỆT NAM". Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết.
Dấu ấn trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương

Dấu ấn trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế - Nhìn lại năm 2024 và định hướng năm 2025

Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế - Nhìn lại năm 2024 và định hướng năm 2025

Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4 - 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng  giai đoạn mới

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng giai đoạn mới

Ngày 15/01/2025, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia
Tiết kiệm, chống lãng phí - nhìn từ góc độ thể chế

Tiết kiệm, chống lãng phí - nhìn từ góc độ thể chế

Trong bài viết “Chống lãng phí”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Trước yêu cầu tăng cường nguồn lực, khơi dậy sức dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống lãng phí đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới rất khẩn trương, cấp bách...
Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam - Thách thức và giải pháp

Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam - Thách thức và giải pháp

Điều hành tỉ giá hối đoái tại Việt Nam là hoạt động quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và những biến động từ các yếu tố bên ngoài như giá dầu, chính sách tiền tệ của các nước lớn, cũng như tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính, việc điều hành tỉ giá đang phải đối mặt với nhiều thách thức...
Kinh nghiệm huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân của một số ngân hàng thương mại trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Kinh nghiệm huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân của một số ngân hàng thương mại trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam đã huy động được khối lượng vốn lớn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để tạo được những bước chuyển mới cho nền kinh tế, hoạt động huy động tiền gửi của một số ngân hàng này đang đứng trước những thách thức mới, đòi hỏi nhà quản trị ngân hàng phải thực sự quan tâm và chú ý để nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân...
Xem thêm
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước

Năm 2024, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có những biến động phức tạp nhưng kinh tế Việt Nam phục hồi tích cực, nằm trong nhóm các quốc gia tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới; lạm phát được kiểm soát tốt; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Nhiều tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín (như Fitch Rating, Moody’s, S&P) tiếp tục đánh giá tích cực về tình hình kinh tế của Việt Nam. Trong những thành công đó, có đóng góp quan trọng từ việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, NHNN tiếp tục phát huy những thành quả đạt được trong điều hành CSTT, tăng khả năng thích ứng với những biến động của môi trường kinh tế thế giới và trong nước để kiên định mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng, góp phần nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là chia sẻ của Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà về điều hành CSTT nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025.
Nhận thế chấp dự án và nhà ở hình thành trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại theo quy định mới

Nhận thế chấp dự án và nhà ở hình thành trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại theo quy định mới

Mục đích thế chấp theo Luật Nhà ở năm 2023 là để vay vốn đầu tư chính dự án nhà ở thương mại hoặc xây dựng nhà ở thuộc dự án nhà ở thương mại và bên nhận thế chấp chỉ có thể là tổ chức tín dụng tài trợ cho dự án hoặc tài trợ cho việc xây dựng nhà ở thuộc dự án.
Khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô

Khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ quyết tâm triển khai các giải pháp đã đề ra, đồng hành cùng hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) tháo gỡ những khó khăn để có thể bảo đảm cung ứng đầy đủ vốn tín dụng ngân hàng phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng trong nền kinh tế, hướng tới việc thực hiện những mục tiêu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, đóng góp công sức vào công cuộc chuyển mình, cất cánh của dân tộc Việt Nam.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long dự Diễn đàn "Kinh doanh và Pháp luật" năm 2025

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long dự Diễn đàn "Kinh doanh và Pháp luật" năm 2025

Ngày 09 10, tại Hà Nội, Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương đã tổ chức Diễn đàn Kinh doanh và Pháp luật năm 2025 với chủ đề Chung tay giải quyết các vấn đề pháp lý, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp”.
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Nền kinh tế mùa lễ hội: Khi niềm vui và lợi nhuận song hành

Nền kinh tế mùa lễ hội: Khi niềm vui và lợi nhuận song hành

Mùa lễ hội cuối năm tại Mỹ là sự kết hợp hài hòa giữa giá trị văn hóa, tinh thần và kinh tế. Lễ Tạ ơn (Thanksgiving), Giáng sinh (Christmas) hay Tết Dương lịch (New Year’s Day), mỗi dịp lễ đều mang lại ý nghĩa riêng, góp phần làm phong phú đời sống cộng đồng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tổng quan kinh tế thế giới năm 2024 và triển vọng 2025

Tổng quan kinh tế thế giới năm 2024 và triển vọng 2025

Năm 2024, hoạt động kinh tế toàn cầu tuy không rơi vào suy thoái, nhưng vẫn ở mức thấp hơn tiềm năng, với lạm phát dù đã hạ nhiệt so với năm 2023, nhưng vẫn ở mức cao hơn mục tiêu tại nhiều quốc gia.
Kinh tế - tài chính thế giới năm 2025 và một số khuyến nghị điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa ở Việt Nam

Kinh tế - tài chính thế giới năm 2025 và một số khuyến nghị điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa ở Việt Nam

Dự báo cho năm 2025, lạm phát toàn cầu tiếp tục xu hướng giảm, tiến gần hơn đến mục tiêu ổn định giá. Theo IMF, lạm phát toàn cầu dự kiến giảm từ 5,8% năm 2024 xuống còn 4,3% năm 2025 và theo OECD (9/2024), các nền kinh tế phát triển có thể đạt mức 2,0%, gần sát mục tiêu của ngân hàng trung ương.
Năm nguyên tắc cơ bản về truyền tải thông điệp chính sách của ngân hàng trung ương

Năm nguyên tắc cơ bản về truyền tải thông điệp chính sách của ngân hàng trung ương

Thông điệp truyền thông chính sách có tác động rất lớn đến cảm xúc, nhận thức của người tiếp nhận truyền thông, dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi, thói quen và đặc biệt là cách thức tương tác với nhau giữa các chủ thể truyền thông. Truyền thông đang tạo ra quá trình xã hội hóa người dùng nên thông điệp truyền thông chính sách ngày càng tác động lớn đến sự khuếch tán của nội dung truyền thông...
Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và một số hàm ý chính sách

Bài viết thông qua phân tích nhanh các cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2020 - 2023 và trên cơ sở số liệu nghiên cứu kinh tế vĩ mô, nhận diện những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất một số hàm ý về chính sách cho mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững...

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối