Hoạt động tài chính vi mô trong xu hướng phát triển của công nghệ tài chính

Công nghệ & ngân hàng số
Tổ chức tài chính vi mô (TCVM) là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ như ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ.
aa

Tóm tắt: Tổ chức tài chính vi mô (TCVM) là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ như ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ. Tại Việt Nam, hoạt động TCVM đã được nhìn nhận như một công cụ hữu hiệu thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo, góp phần không nhỏ vào việc giảm tỉ lệ hộ nghèo ở Việt Nam. Với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ, nhất là công nghệ tài chính (Fintech), lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói chung và TCVM đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội thúc đẩy phát triển TCVM, thì xu hướng phát triển của Fintech cũng đặt ra không ít thách thức đối với sự phát triển TCVM tại Việt Nam. Bài viết nêu thực trạng hoạt động TCVM gắn với Fintech tại Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp đối với hoạt động TCVM khi gắn với công nghệ số.

Từ khóa: Tài chính vi mô, Fintech, công nghệ số.

MICROFINANCE ACTIVITIES IN THE TREND OF FINTECH DEVELOPMENT

Abstract: Microfinance institutions (MFIs) are a type of financial organization that provides some banking services to meet the needs of low-income inpiduals, households, and small businesses. In Vietnam, MFI activities have been recognized as an effective tool for promoting poverty reduction and significantly contributing to reduce the poverty rate in Vietnam. With the rapid development of technology, especially financial technology (Fintech), the financial and banking sector in general and MFIs in particular have undergone significant changes. Besides the opportunities to promote MFI development, the trend of Fintech also poses many challenges to the development of MFIs in Vietnam. This article analyzes the current situation of MFI activities in conjunction with Fintech in Vietnam, thereby proposing some solutions for MFI activities when integrated with digital technology.

Keywords: Microfinance, Fintech, digital technology.

1. TCVM và Fintech

Hoạt động TCVM được biết đến là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống tài chính tại các quốc gia và là một công cụ xóa đói, giảm nghèo hữu hiệu. Thông qua hoạt động TCVM, nhóm thu nhập thấp, nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội được tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ tài chính như: Các khoản tín dụng vi mô, tiết kiệm, bảo hiểm đối với người nghèo, các hộ gia đình có thu nhập thấp...

Tổ chức TCVM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ như ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ. Tại Việt Nam, hoạt động TCVM đã được nhìn nhận như một công cụ hữu hiệu thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo, góp phần không nhỏ vào việc giảm tỉ lệ hộ nghèo ở Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển, hoạt động và mục tiêu của TCVM ngày càng gần với mục tiêu của phổ cập tài chính. Chính vì vậy, hiện nay TCVM đã trở thành một bộ phận quan trọng để thúc đẩy tài chính toàn diện ở các nước, trong đó có Việt Nam.

Nhằm đảm bảo mục tiêu tái cơ cấu toàn diện thị trường tài chính, hàng loạt các văn bản pháp lí được ban hành và chi phối mạnh mẽ hoạt động TCVM. Cụ thể: Ngày 06/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2195/QĐ-TTg phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020. Tiếp đó, ngày 12/6/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg quy định về hoạt động của chương trình, dự án TCVM của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ.

Sự ra đời của Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg đã góp phần thực hiện mục tiêu phát triển hệ thống TCVM theo Đề án xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020 và là cơ sở pháp lí đầu tiên hướng dẫn về nội dung hoạt động, phạm vi hoạt động đối với các chương trình, dự án TCVM, tạo nền tảng cho các cơ quan quản lí nhà nước có cơ sở quản lí thống nhất các chương trình, dự án TCVM đang hoạt động nhỏ lẻ, đa dạng và trải rộng trên phạm vi cả nước.

Tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, TCVM được xem như một trụ cột quan trọng hướng tới phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam, qua đó góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế Việt Nam toàn diện, bền vững.

Fintech là một thuật ngữ được ghép từ hai thuật ngữ riêng biệt: “Financial” và “Technology”, thường được dùng để mô tả quá trình ứng dụng các công nghệ mới nhằm tự động hóa việc cung ứng và sử dụng dịch vụ tài chính. Fintech có thể hiểu là việc áp dụng các công nghệ đổi mới, sáng tạo và hiện đại cho lĩnh vực tài chính, nhằm mang tới cho khách hàng các giải pháp/dịch vụ tài chính minh bạch, hiệu quả và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính truyền thống (Mackenzie, 2015; Schueffel, 2016).

Công nghệ đóng vai trò là nhân tố chủ đạo trong việc đưa dịch vụ tài chính đến với những khu vực vùng sâu, vùng xa của một quốc gia - nơi người dân không thể hoặc khó tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng truyền thống. Với sự cải thiện rõ rệt về hạ tầng công nghệ như sự phổ biến của Internet hay mạng điện thoại di động, khách hàng có thể thực hiện giao dịch mà không cần phải tiếp xúc trực tiếp với nhân viên tín dụng từ một tổ chức TCVM như trước kia. Nhờ đó, khoảng cách tới điểm giao dịch vật lí hiện tại không còn là lí do để người dân không thể tiếp cận dịch vụ tài chính.

2. Thực trạng hoạt động TCVM gắn với Fintech tại Việt Nam hiện nay

Với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ, nhất là Fintech, lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói chung và TCVM đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Trên thế giới, TCVM đang áp dụng các mô hình ngày càng phát triển hiện đại hơn khi đứng trong bối cảnh thay đổi của thị trường tài chính và kinh tế. Tương lai của TCVM được nhận định là nằm ở các mô hình mới, pha trộn giữa các dịch vụ tài chính kĩ thuật số, giúp giảm chi phí với các tương tác trực tiếp truyền thống nhằm giảm thiểu rủi ro thông qua dữ liệu và các thuật toán, đồng thời tăng cường tiếp cận đến khách hàng. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, một số tổ chức TCVM đã ngày càng chú trọng tới ứng dụng công nghệ kĩ thuật số hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.

Điển hình là Tổ chức TCVM TNHH Một thành viên Tình Thương (TYM), tổ chức TCVM chính thức đầu tiên tại Việt Nam do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập năm 1992. Đến nay, TYM đã hỗ trợ trên 200.000 phụ nữ, hộ gia đình nghèo và thu nhập thấp ở nông thôn và bán nông thôn Việt Nam thông qua các dịch vụ tài chính và xã hội. Nhằm giúp phụ nữ có thể tiếp cận với công nghệ số một cách dễ dàng hơn, Quỹ Châu Á và TYM đã thống nhất hợp tác tổ chức Dự án “Go Digital ASEAN” để mở rộng cơ hội kinh tế bằng cách trang bị cho các cộng đồng yếu thế, đặc biệt các doanh nghiệp siêu nhỏ do nữ làm chủ và hộ kinh doanh gia đình các kĩ năng công nghệ thông tin quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế kĩ thuật số. Dự án do Google.org hỗ trợ ở 10 quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Mục tiêu tổng thể của Dự án “Go Digital ASEAN” là mở rộng các cơ hội kinh tế trong các nước thành viên ASEAN và giảm thiểu các tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 thông qua việc trang bị các kĩ năng công nghệ thông tin quan trọng cho các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ và thanh niên chưa có việc làm ổn định. Hoạt động của Dự án “Go Digital ASEAN” tại Việt Nam đóng góp cho mục tiêu tổng thể này thông qua việc đạt được 02 mục tiêu chính: (i) Nâng cao năng lực phát triển kinh doanh cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia đình bằng cách sử dụng các công cụ công nghệ thông tin và marketing trực tuyến; (ii) Nâng cao năng lực cho thanh niên chưa có việc làm ổn định tại các địa phương khó khăn nhằm thúc đẩy tham gia vào nền kinh tế số. Thông qua Dự án, có khoảng 64.900 người (80% là nữ khách hàng của TYM và 20% còn lại là chồng, con khách hàng, người cùng tham gia vào các hoạt động kinh tế/sản xuất, kinh doanh của gia đình) tham gia và thụ hưởng từ các hoạt động đào tạo của Dự án. Ngoài ra, Dự án đã hướng đến hơn 400 cán bộ cơ sở của TYM, những cán bộ đang trực tiếp cung cấp các dịch vụ TCVM và đào tạo cho các nhóm dân cư nói trên.

Thời gian qua, bên cạnh việc hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, TYM đã có nhiều hoạt động góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện Nghị quyết Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế đến năm 2030 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ năm 2022, TYM đã triển khai App TYM Mobile nhằm gia tăng trải nghiệm cho khách hàng, giúp khách hàng quản lí tài chính và thực hiện một số bước trong giao dịch với TYM dễ dàng, thuận tiện hơn. Ngoài ra, TYM cũng thí điểm hợp tác với ngân hàng thương mại nhằm hỗ trợ khách hàng giao dịch không dùng tiền mặt. Hoạt động này mang lại sự tiện lợi, nhanh chóng và an toàn hơn cho khách hàng, đồng thời từng bước hỗ trợ chị em phụ nữ, đặc biệt phụ nữ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa quen dần với việc sử dụng công nghệ và sẵn sàng thích ứng trong thời đại số và hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc đào tạo kĩ năng số cho chị em phụ nữ, đặc biệt hộ kinh doanh do nữ làm chủ và nhóm dân số thiệt thòi, những năm qua, TYM chú trọng trang bị cho khách hàng các kiến thức và kĩ năng công nghệ cần thiết để có thể vượt qua các rào cản và thúc đẩy tham gia đầy đủ, thành công vào nền kinh tế số. Từ năm 2019, hơn 81.000 phụ nữ là khách hàng của TYM và chồng, con của họ đã được đào tạo, nâng cao năng lực về công nghệ như cách sử dụng điện thoại thông minh, Internet và những ứng dụng cơ bản, bán hàng trực tuyến, an toàn trên không gian mạng.

Là một trong 04 tổ chức TCVM trong cả nước được cấp phép hoạt động bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Tổ chức TCVM Thanh Hóa đã xây dựng chiến lược hoạt động của tổ chức đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và triển khai thực hiện, đảm bảo bám sát chiến lược phát triển ngành TCVM, ngành Ngân hàng, chương trình hành động của NHNN và phù hợp với tình hình thực tế của Tổ chức TCVM Thanh Hóa.

Trong hơn 25 năm hình thành và phát triển, Tổ chức TCVM Thanh Hóa luôn kiên định mục tiêu, sứ mệnh, tận tâm mang sản phẩm vốn vay TCVM tới các hộ nghèo, hộ có thu nhập thấp trên mọi vùng, miền của tỉnh Thanh Hóa; tuyên truyền, vận động hàng chục nghìn phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Từ nguồn vốn vay ấy đã tạo động lực, điểm tựa, mạnh dạn đầu tư sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, từng bước ổn định và cải thiện kinh tế gia đình, nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng; góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội tại địa phương. Đến nay, tổ chức TCVM Thanh Hóa hoạt động với 04 chi nhánh và 11 phòng giao dịch tại 267 xã, 19 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh, phục vụ gần 53 nghìn khách hàng, trong đó có gần 20 nghìn khách hàng tham gia vay vốn, với tổng dư nợ tính đến tháng 7/2023 đạt 456,8 tỉ đồng.

Nhằm hỗ trợ khách hàng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản một cách thuận tiện, chi phí hợp lí, Tổ chức TCVM Thanh Hóa có nhiều đổi mới, linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp tiếp cận, tổ chức kênh phân phối. Bên cạnh phương pháp tiếp cận truyền thống là cán bộ TCVM trực tiếp gặp gỡ, tuyên truyền giới thiệu sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng hoặc thông qua hội Liên hiệp phụ nữ, chính quyền địa phương, Tổ chức TCVM Thanh Hóa ứng dụng công nghệ để đăng kí thông tin khách hàng vay vốn thông qua phân hệ phần mềm CCS và App tiết kiệm online để giao dịch với khách hàng gửi tiết kiệm ngay tại nhà văn hóa thôn với mức tiền gửi nhỏ nhất, khách hàng có thể gửi thường xuyên mà không mất chi phí đi lại.

Song song với đó, Tổ chức TCVM Thanh Hóa phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản, hướng đến những đối tượng mục tiêu của tài chính toàn diện. Các sản phẩm, dịch vụ chính hiện nay là: Vốn vay vi mô, sản phẩm tiết kiệm, sản phẩm bảo hiểm vi mô. Bên cạnh đó, Tổ chức TCVM Thanh Hóa nỗ lực đẩy mạnh phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ tài chính linh hoạt, phù hợp với đối tượng khách hàng (hộ nghèo, hộ có thu nhập thấp, phụ nữ, doanh nghiệp siêu nhỏ) ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông qua nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả.

Thời gian qua, Tổ chức TCVM Thanh Hóa chú trọng việc mở rộng địa bàn hoạt động ra các khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi tại các huyện: Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Như Thanh... Tính đến nay, khách hàng là người dân tộc thiểu số chiếm 11,8% tổng số khách hàng vay vốn của Tổ chức TCVM Thanh Hóa. Đây là một trong những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện trong tỉnh Thanh Hóa nói riêng và tại Việt Nam nói chung.

Tổ chức TCVM CEP, tiền thân là Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm, là tổ chức phi lợi nhuận, được Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh sáng lập và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập ngày 02/11/1991. Trong suốt hơn 32 năm hoạt động, CEP luôn kiên định với sứ mệnh làm việc vì công nhân, lao động nghèo và người có thu nhập thấp nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính, phi tài chính một cách thiết thực và hiệu quả. Từ 460 triệu đồng nguồn vốn ban đầu, đến nay CEP đã phát triển hơn 6.000 tỉ đồng cùng mạng lưới 36 chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh và 09 tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Thực hiện chủ trương của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về phát triển và mở rộng hoạt động tài chính vi mô của tổ chức Công đoàn trở thành điểm tựa tài chính tin cậy, giúp công nhân lao động nghèo có cơ hội cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng thu nhập, chủ động phòng tránh nạn “tín dụng đen”, trong năm 2023, CEP triển khai đề án “CEP cùng tổ chức công đoàn phòng, chống “tín dụng đen” trong công nhân lao động”. Nội dung tập trung vào các nhóm giải pháp CEP thực hiện trong giai đoạn 2023 - 2028: (1) Tăng khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ CEP cho công nhân lao động; (2) Nâng cao kiến thức tài chính, giúp công nhân chủ động phòng tránh “tín dụng đen” và quản lí hiệu quả tài chính cá nhân; (3) Bổ sung nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vay vốn của công nhân.

Năm 2023, CEP tiếp tục phát triển và cải thiện App CEP, hoàn thiện quy trình thủ tục đáp ứng yêu cầu thực tiễn và cơ quan quản lí Nhà nước, các chương trình Phát triển cộng đồng đi vào chiều sâu, hỗ trợ trọng tâm nhóm khách hàng khó khăn nhất. Tính đến tháng 9/2023, CEP đã trợ vốn cho 5.522.384 lượt khách hàng vay vốn với doanh số 84.622 tỉ đồng, có hơn 342.120 công nhân và người lao động đang được hỗ trợ vốn vay từ CEP với tổng dư nợ trên 5.521 tỉ đồng.

Hoạt động cốt lõi của CEP là phát triển cộng đồng nhằm hỗ trợ khách hàng và hộ gia đình sử dụng hiệu quả vốn vay, nâng cao năng lực, vượt qua khó khăn, cải thiện an sinh bền vững. Quá trình hoạt động hơn 32 năm qua, CEP đã thực hiện xây, sửa 1.331 mái nhà, tặng 405.321 suất học bổng, quà học tập, tổ chức các chương trình Giáo dục tài chính, chương trình “CEP - Chia sẻ yêu thương, cùng công nhân và người lao động phòng chống “tín dụng đen” và nhiều hoạt động hỗ trợ khác. Hiện tại, CEP tiếp tục nỗ lực và kiên định với mục tiêu đã đề ra, đồng thời đẩy mạnh áp dụng số hóa trong cải tiến sản phẩm, dịch vụ, chăm sóc khách hàng… giúp hỗ trợ cho công nhân, lao động nghèo nhanh chóng, kịp thời, góp phần cùng với tổ chức công đoàn từng bước đẩy lùi “tín dụng đen”.

3. Một số thách thức và giải pháp đối với hoạt động TCVM khi gắn với công nghệ số

TCVM với sự dịch chuyển có lộ trình phù hợp sang dịch vụ tài chính số được nhìn nhận là “cú huých” mạnh mẽ, tác động cả về chiều rộng và chiều sâu trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam. Các sản phẩm tài chính hiện có cũng như phát triển các kênh phân phối mới của các tổ chức TCVM sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho các sản phẩm và dịch vụ tài chính minh bạch; cùng với đó là giá cả phải chăng, chất lượng cao và dễ dàng tiếp cận cho các khách hàng của tổ chức TCVM, từ đó tăng quyền tự chủ tài chính, hỗ trợ sự tham gia của khách hàng, đặc biệt là phụ nữ vào lực lượng lao động và cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Trong bối cảnh phát triển, bùng nổ Fintech, khuôn khổ pháp lí của hoạt động TCVM Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, theo định hướng tạo lập môi trường để phát triển hệ thống TCVM chuyên nghiệp hơn. Nhiều chính sách khuyến khích các hoạt động TCVM đã được ban hành, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại vào cung ứng các dịch vụ TCVM. Chính sách tăng cường ứng dụng Fintech trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nói chung, bao gồm cả TCVM đã và đang được chú trọng, triển khai tích cực tại Việt Nam. Điểm tích cực này thể hiện qua những ưu tiên và chú trọng đối với phát triển Fintech, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech. Hoạt động TCVM tại Việt Nam hiện vẫn chủ yếu cung ứng bởi 03 nhóm chính gồm: Các tổ chức TCVM chính thức; các chương trình, dự án TCVM; các tổ chức tín dụng khác có hoạt động TCVM. Trong đó, hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội được xem là có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác, giúp họ cải thiện đời sống, vươn lên thoát nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Trong bối cảnh phát triển Fintech, các ngân hàng thương mại đã thiết kế và tăng dần cung cấp các sản phẩm tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ tài chính đặc thù như eBanking, Mobile Banking cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, phụ nữ, người nghèo... là những đối tượng khách hàng mục tiêu của TCVM. Kết quả hoạt động TCVM tại Việt Nam thời gian qua đã góp phần tích cực tới công tác giảm nghèo, tăng cường cơ hội sử dụng dịch vụ tài chính tới các nhóm đối tượng mục tiêu, đặc biệt là phụ nữ, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện. Sự phát triển TCVM tại Việt Nam trong xu hướng phát triển của Fintech đang được hưởng lợi nhờ: Từ phía cầu, dư địa cho hoạt động TCVM tại Việt Nam còn nhiều do số lượng người nghèo còn lớn; phát triển TCVM nhận được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ; nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ Fintech của Việt Nam tương đối lớn, bao gồm cả nhu cầu tại các vùng nông thôn, các đối tượng khách hàng mục tiêu của TCVM như phụ nữ, người nghèo; cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam được đầu tư, hoàn thiện; tỉ lệ tiếp cận điện thoại di động và Internet của người dân khu vực nông thôn ngày càng cao… Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội thúc đẩy phát triển TCVM, thì xu hướng phát triển của Fintech cũng đặt ra không ít thách thức đối với sự phát triển TCVM tại Việt Nam khi các tổ chức TCVM chưa tận dụng được thế mạnh vốn có đó là sự hiểu biết sâu sắc về nhu cầu đa dạng của người nghèo, người khó khăn trong tiếp cận dịch vụ tài chính. Tại Hội thảo “TCVM hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo tại Việt Nam” do NHNN phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức ngày 25/9/2018, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nhóm công tác TCVM cho rằng, hoạt động TCVM áp dụng giải pháp công nghệ đem lại nhiều lợi ích cho phụ nữ như cung cấp sự riêng tư, bảo mật và giúp họ kiểm soát tài chính tốt hơn; tạo cơ hội tiết kiệm chính thức, giảm hoặc loại bỏ chi phí cao liên quan đến tiết kiệm không chính thức; cải thiện khả năng tiếp cận của phụ nữ đối với hệ thống tín dụng chính thức, giảm thời gian đi lại để tiếp cận với ngân hàng hoặc thanh toán các chi phí tiện ích; hỗ trợ quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh và sản xuất… Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, các tổ chức TCVM chưa ứng dụng toàn diện Fintech vào hoạt động TCVM, một phần do các tổ chức này đang tập trung đầu tư, đổi mới hệ thống công nghệ thông tin, trong khi nguồn lực còn hạn chế.

Về phía cơ quan quản lí, NHNN được đánh giá đã rất nỗ lực và đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập một hệ sinh thái và khuôn khổ pháp lí phù hợp, tạo điều kiện cho các tổ chức TCVM từng bước hội nhập vào hệ thống ngân hàng - tài chính. Dù vậy, những nỗ lực này được nhận định là chưa bắt kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu khách hàng trong khu vực TCVM ở Việt Nam hiện nay, cũng như tiềm năng của khu vực này trong việc ứng dụng Fintech mở rộng tập khách hàng và đóng góp cho việc phổ cập tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội. Khuôn khổ pháp lí cho hoạt động TCVM ứng dụng Fintech về cơ bản mới chỉ áp dụng trong hoạt động thanh toán. Điều này đang tạo ra một rào cản lớn cho việc gia nhập thị trường và sự tồn tại của các tổ chức TCVM.

Việc ban hành chính sách pháp lí nhằm kiểm soát, quản lí các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính - ngân hàng trên nền tảng công nghệ kĩ thuật, đặc biệt là hoạt động của các tổ chức TCVM, các tổ chức Fintech. Các chính sách ưu đãi về tài chính, môi trường pháp lí cho các nhà cung cấp dịch vụ TCVM nếu thiếu đầy đủ và đồng bộ, hoặc không thuận lợi sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển ngành TCVM. Bên cạnh đó, nếu các cơ quan quản lí không có đầy đủ thông tin về thị trường, có thể dẫn đến việc ban hành các chính sách quản lí chưa thật phù hợp, từ đó sẽ khó khăn trong quản lí, giám sát hoạt động TCVM.

Trong xu hướng phát triển của Fintech thì vấn đề công nghệ và hạ tầng kĩ thuật là rất quan trọng, trong đó, công nghệ an ninh, an toàn bảo mật trong phát triển, xây dựng các dịch vụ tài chính cần được quan tâm hàng đầu. Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về tổ chức cung cấp dịch vụ và người sử dụng (cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình... có nhu cầu sử dụng dịch vụ) để giúp đo lường, đánh giá chính xác về nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính và đặc biệt các dữ liệu thống kê về các rủi ro, sự cố đã xảy ra trong quá khứ đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính số là đặc biệt quan trọng đối với hoạt động TCVM. Tuy nhiên, thách thức đặt ra đối với các tổ chức TCVM là nguồn lực tài chính (như vốn, cơ sở hạ tầng…); công nghệ và nguồn nhân lực để có thể triển khai kế hoạch, chiến lược hợp tác với các công ty Fintech nhằm mở rộng cơ sở khách hàng, phát triển sản phẩm, dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Do đối tượng khách hàng của các tổ chức TCVM chủ yếu là người nghèo, người có thu nhập thấp nên việc thiếu kiến thức hoặc hiểu chưa đúng về các dịch vụ tài chính mà họ muốn tiếp cận, chưa được trang bị các kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng; tâm lí còn e ngại sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ cũng là những khó khăn, thách thức của các tổ chức TCVM.

Hơn nữa, hoạt động của các doanh nghiệp Fintech tại Việt Nam chủ yếu là hoạt động thanh toán; các dịch vụ quản lí tài sản, quản lí thanh khoản, quản lí danh tính, quản lí đầu tư, quản lí rủi ro, quản lí kinh doanh; bảo hiểm, bảo lãnh phát hành; dịch vụ tư vấn tài chính tự động... cần được phát triển để đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời gian tới.

Trên cơ sở định hướng xây dựng và phát triển hệ thống các tổ chức TCVM an toàn, bền vững theo định hướng thị trường, mở rộng sự tiếp cận dịch vụ TCVM có chất lượng cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, các hộ gia đình nghèo và người có thu nhập thấp để tăng cường cơ hội phát triển kinh tế cho người dân, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững; để hạn chế các thách thức, khó khăn mà TCVM đang đối mặt trong xu hướng phát triển của Fintech, một số giải pháp nhằm phát triển TCVM trong thời gian tới được đề xuất như sau:

Thứ nhất, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khung khổ pháp lí, chính sách đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động TCVM nhằm khuyến khích dịch vụ tài chính số lĩnh vực TCVM. Trong bối cảnh Fintech ngày càng phát triển mạnh mẽ, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã rất quan tâm xây dựng khuôn khổ pháp lí phù hợp, tạo điều kiện cho các tổ chức TCVM nỗ lực phát triển theo hướng chuyên nghiệp, bền vững, hội nhập TCVM vào hệ thống các tổ chức tài chính - ngân hàng chính thức. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy khuôn khổ pháp lí cho hoạt động TCVM ứng dụng Fintech về cơ bản mới chỉ ở giai đoạn đầu, cần tiếp tục hoàn thiện nhằm bắt kịp tiềm năng, nhu cầu thực tiễn và tốc độ phát triển ứng dụng Fintech đối với các tổ chức TCVM, qua đó, phát triển nền kinh tế và an sinh xã hội.

Thứ hai, cần quan tâm, trợ giúp các tổ chức TCVM thiết lập quan hệ đối tác với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính số dưới hình thức công ty Fintech hiện có tại thị trường Việt Nam. Khi điều kiện cho phép, có thể hỗ trợ một số khách hàng của tổ chức TCVM trở thành các đại lí của các nhà cung cấp ví điện tử, giúp doanh nghiệp tự chủ và tăng thu nhập.

Thứ ba, cần nâng cao năng lực của tổ chức TCVM; thiết lập hệ thống kênh, đại lí phân phối các sản phẩm, dịch vụ tài chính số cho các tổ chức TCVM, kiện toàn hạ tầng công nghệ thông tin để chuyển đổi dần TCVM sang tài chính số. Tổ chức TCVM cần phát triển, đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu toàn diện khách hàng. Một số sản phẩm cần hướng tới như bảo hiểm vi mô, các khoản vay khẩn cấp, các khoản vay vi mô nhằm phát triển giáo dục cho trẻ em…

Thứ tư, các tổ chức TCVM cần tranh thủ sự trợ giúp có tính nền tảng từ các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam thông qua hệ thống các kênh phân phối hiện hữu và số hóa, các đối tác tin cậy cung cấp dịch vụ và các mô hình tuần tự, bền vững. Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thanh toán, quản trị vốn tín dụng và cải cách quy trình vay, trả với từng thành viên nhằm nâng cao hiệu quả quản lí, hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các thành viên trong việc tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ.

Tài liệu tham khảo:

1. Phạm Thị Huyền (2019). Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 209, tháng 10/2019.

2. TS. Nguyễn Hữu Tịnh (2023). Giải pháp phát triển tài chính vi mô ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính kỳ 2, tháng 7/2023.

3. Trần Trọng Triết (2022). Hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam - “đòn bẩy” góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện. Tạp chí điện tử Ngân hàng ngày 17/3/2022.

4. Các website: https://tymfund.org.vn/;

cep.org. vn; baothanhhoa.vn

ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình
Hà Nội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng