Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Thực trạng và giải pháp

Chính sách
Doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Sau hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2022), mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
aa

Tóm tắt: Doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Sau hơn 35 năm đổi mới, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong huy động nguồn lực cho sự phát triển. Bài viết gồm ba nội dung chính: Tìm hiểu khái niệm, vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam; phân tích thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, đánh giá thành tựu đạt được và những hạn chế, tồn tại; đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhà nước, thực trạng, nguyên nhân, giải pháp, Việt Nam.

OPERATIONS OF STATE-OWNED ENTERPRISES IN THE CONTEXT OF INTERNATIONAL INTEGRATION: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS

Abstract: State-owned enterprises always play a very important role in Vietnam’s economic development. After more than 35 years of innovation (1986 - 2022), despite achieving important results, the contribution of Vietnam’s state-owned enterprises to the economy is still not commensurate with its potential. The state-owned enterprise sector still has some shortcomings and limitations in the process of production and business activities as well as in mobilizing resources for development. This article includes 3 main contents: Understanding the concept, role and characteristics of Vietnam’s state-owned enterprises; analyzing the current situation of operations of Vietnam’s state-owned enterprises, assessing achievements acquired and existing limitations; proposing solutions to improve the operational efficiency of Vietnam’s state-owned enterprises in the current context of deep international integration.

Keywords: State-owned enterprises, current situation, cause, solution, Vietnam.

1. Doanh nghiệp nhà nước: Khái niệm, vai trò và đặc điểm

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Ở Việt Nam, từ năm 2021, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định pháp luật.

Các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như: Thứ nhất, Nhà nước hoặc Nhà nước cùng với các tổ chức, cá nhân khác là chủ đầu tư. Với tư cách là chủ đầu tư duy nhất của doanh nghiệp, Nhà nước có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, Nhà nước có quyền quyết định về việc hình thành, tái tổ chức và quyết định mục tiêu, chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư tài chính; quyết định mô hình tổ chức quản lí, giải thể; kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (100%) hoặc sở hữu phần vốn góp chi phối (trên 50% nhưng dưới 100% vốn điều lệ). Thứ ba, có nhiều hình thức tồn tại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì có các loại hình doanh nghiệp như công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước. Nếu doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì có thể tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản góp vốn vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.



Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội

Doanh nghiệp nhà nước đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước; góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực ngoài nhà nước phát triển. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước thể hiện rõ trên những khía cạnh sau:

Một là, số lượng doanh nghiệp nhà nước mặc dù chỉ chiếm gần 0,4% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh.

Hai là, doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Theo Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) về thị trường phát điện Việt Nam, các nhà máy điện thuộc các tập đoàn kinh tế nhà nước (Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam - PVN) chiếm khoảng 87% trong cơ cấu nguồn điện.

Ba là, doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh - quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia. Các doanh nghiệp nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, phục vụ chính sách điều tiết kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn giá.

Doanh nghiệp nhà nước có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, đó là, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, huy động nguồn vốn, tăng môi trường cạnh tranh, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí tiên phong trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại, trình độ quản lí tiên tiến, tăng năng suất lao động và đi đầu về chất lượng, hiệu quả kinh tế.

Trong bối cảnh của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng trong dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, từ đó, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh dịch Covid-19 cùng những biến động trong khu vực và quốc tế, vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phát huy và thể hiện rất rõ nét. Doanh nghiệp nhà nước đã tích cực triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, tham gia phòng, chống dịch Covid-19.

Với vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, sự phát triển hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước sẽ trực tiếp gia tăng sức mạnh của kinh tế nhà nước, góp phần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo nền tảng vững chắc của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.

2. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước: Thành tựu và hạn chế

Doanh nghiệp nhà nước được xác định là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Việt Nam hiện có khoảng gần 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và gần 200 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trong số 350 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước). Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đang nắm giữ chiếm khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường. Tổng tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 4 triệu tỉ đồng năm 20211; quy mô tài sản bình quân của mỗi doanh nghiệp nhà nước là 4.100 tỉ đồng, cao gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Dù chỉ chiếm 0,4% trong tổng số doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp nhà nước đã huy động được 9,65 triệu tỉ đồng vốn cho sản xuất, kinh doanh, với doanh thu thuần cao nhất là 13,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỉ đồng, trong khi doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tới 96,9% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng chỉ thu hút được 22,25 triệu tỉ đồng vốn, doanh thu đạt 3,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỉ đồng. Năm 2021, tổng doanh thu của khối doanh nghiệp nhà nước vượt 43,3% kế hoạch, tăng 7,8% so với năm 2020; lợi nhuận trước thuế vượt kế hoạch 41,7%, tăng 22,5% so với năm 2020, nộp ngân sách chiếm 17 - 23% tổng thu ngân sách nhà nước2.

Năm 2023, tổng doanh thu của toàn khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 1,41 triệu tỉ đồng, tăng 4% so với kế hoạch3. Khoảng 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Trong bối cảnh Covid-19, doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những thành tựu kinh tế nổi bật như:

Thứ nhất, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm chưa đến 0,4% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động (năm 2021) nhưng hoạt động hiệu quả với hiệu suất sử dụng lao động cao nhất so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (18,9 lần); hiệu suất sinh lợi trên doanh thu (ROS) của toàn bộ khu vực doanh nghiệp đạt 3,4%, trong đó doanh nghiệp nhà nước đạt mức cao nhất (5,8%).

Thứ hai, các chỉ số tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy có sự tăng trưởng, phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng. Năm 2021, tổng giá trị tài sản đạt 2.965.425 tỉ đồng (tăng 8%), vốn chủ sở hữu đạt 1.445.877 tỉ đồng (tăng 17%), lợi nhuận trước thuế đạt 122.347 tỉ đồng (tăng 5%) so với năm 2016. Tỉ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân cả giai đoạn 2016 - 2020 là 10,46%.

Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, chiếm thị phần lớn trong một số lĩnh vực như năng lượng, viễn thông, ngân hàng. Trong lĩnh vực năng lượng, các nhà máy điện của EVN, TKV, PVN cung cấp 87% sản lượng điện cho xã hội.

Trong lĩnh vực viễn thông, thị phần của ba doanh nghiệp nhà nước (Viettel, VNPT, MobiFone) có vai trò chi phối (với thị phần trên 90%). Doanh nghiệp nhà nước cung cấp đầu vào quan trọng cho nền kinh tế (điện, than, dầu khí, alumin...). Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước đang làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, an sinh xã hội.

Dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong huy động nguồn lực. Vai trò dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác chưa được phát huy rõ nét. Năng lực đổi mới sáng tạo còn hạn chế, đặc biệt trong các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế như các công nghệ lõi, công nghệ số trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các ngành năng lượng mới, năng lượng sạch, các ngành chứa đựng giá trị khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cao. Hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, vẫn còn doanh nghiệp, dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả thấp, thua lỗ kéo dài.

Năm 2022, có 64/676 doanh nghiệp có phát sinh lỗ 29.456 tỉ đồng. Các doanh nghiệp nhà nước có nợ phải trả là 1,98 triệu tỉ đồng, tăng 6% so với năm 2021. Tổng lỗ phát sinh của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước trong 6 tháng đầu năm 2023 là 33.639 tỉ đồng4.

Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Việc tham gia bảo đảm cân đối, ổn định kinh tế vĩ mô chưa rõ. Doanh nghiệp nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng, quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nổi bật. Bên cạnh một số doanh nghiệp nhà nước đã tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào quá trình sản xuất, hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn đều vận hành theo phương thức khép kín, thực hiện gần như toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh để tạo thành chuỗi sản xuất khép kín nội bộ, chưa tạo nhiều điều kiện để doanh nghiệp khác tham gia.

Những tồn tại, hạn chế trong hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện cụ thể trên những khía cạnh sau:

Một là, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đạt được dựa trên các lợi thế sẵn có của doanh nghiệp hoặc có lịch sử hoạt động lâu đời trên thị trường. Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Đóng góp vào thu ngân sách nhà nước có xu hướng giảm dần, từ 15,67% năm 2015 xuống còn khoảng 10,64% năm 2019 (không bao gồm thu cổ tức, lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước, tiền bán cổ phần sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp). Chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thấp. Doanh nghiệp nhà nước có tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận thấp hơn tốc độ tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. So với doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thì doanh nghiệp nhà nước có tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận thấp hơn. Nghĩa là, doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng nhiều vốn hơn để tạo ra được một giá trị sản phẩm đầu ra, là yếu tố làm giảm hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.

Hai là, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong dẫn dắt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài nhà nước, thúc đẩy liên kết, hình thành chuỗi giá trị gia tăng còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn đều vận hành theo cơ chế tương đối khép kín, chưa khuyến khích các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia vào các khâu, công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh. Kinh tế nhà nước chưa làm tròn nhiệm vụ hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Ba là, khả năng cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp nhà nước, trong đó có doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn chưa đạt kết quả rõ nét. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong tăng trưởng kinh tế giảm, hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước ngày càng thấp. Nếu sử dụng xuất khẩu là tiêu chí, thước đo để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì có thể thấy khả năng cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế của doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn còn hạn chế.

Nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại, hạn chế trên là do: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về doanh nghiệp nhà nước, trong đó có tập đoàn kinh tế, tổng công ty được rà soát và hoàn thiện nhưng vẫn còn bất cập. Đặc biệt hệ thống pháp luật về đầu tư, quản lí tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu chưa đồng bộ, tạo kẽ hở để một số đối tượng lợi dụng nhằm trục lợi. Bên cạnh đó, chưa có định hướng, chiến lược phát triển cho khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng bền vững; chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực chưa gắn với chiến lược phát triển của doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn chưa phát huy hết tính chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trên thực tế, các quy trình, thủ tục của cơ quan đại diện chủ sở hữu theo quy định của pháp luật thường có độ trễ nhất định, trong khi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải đưa ra những quyết định nhanh, kịp thời để đón cơ hội đầu tư. Có thể tóm tắt ba nhóm nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, đó là:

Nguyên nhân từ quan điểm, nhận thức: Tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước chưa thống nhất dẫn tới lúng túng trong hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Một số vấn đề còn chậm được tổng kết thực tiễn, kết luận để có thể cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, như vấn đề vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vấn đề trao quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, vấn đề sử dụng doanh nghiệp nhà nước làm công cụ điều tiết kinh tế.

Nguyên nhân từ cơ chế, chính sách: Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nhà nước chưa đồng bộ; quy trình thủ tục, báo cáo, phê duyệt nhiều cấp, chưa được phân cấp triệt để. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định làm mất đi cơ hội, giảm hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế, chính sách quản lí đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu hệ tiêu chí đánh giá. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự có quyền tự chủ theo cơ chế thị trường; quy định về doanh nghiệp nhà nước bị phân tán tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, được ban hành ở các thời điểm khác nhau, do các cơ quan ban hành khác nhau nên có những quy định vướng mắc, chồng chéo nhất định.

Chưa có cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty để thực hiện vai trò mở đường, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác; chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích thúc đẩy mối liên kết giữa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty với các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị.

Nguyên nhân từ nội tại doanh nghiệp nhà nước: Do nhiều yếu tố cấu thành nên bản thân doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp và thích ứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Việc đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Mặc dù đã có sự chỉ đạo, nỗ lực của tất cả các bên hữu quan nhưng mục tiêu cổ phần hóa vẫn tiếp tục bị đẩy lùi thời hạn. Doanh nghiệp nhà nước vẫn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn.

Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chưa tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra quốc tế. Doanh nghiệp nhà nước chưa thật sự quyết tâm đầu tư vào các dự án trong lĩnh vực mới, có tác động lớn và lan tỏa tới phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực nghiên cứu, đầu tư vào các lĩnh vực mới còn thiếu, kinh nghiệm quản lí đầu tư xây dựng dự án hạn chế, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, kĩ thuật. Hệ thống quản lí, giám sát doanh nghiệp nhà nước không theo kịp với yêu cầu thực tiễn, thiếu hiệu lực và kém hiệu quả. Công tác công khai, minh bạch thông tin còn hạn chế.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước

Sự cần thiết tồn tại doanh nghiệp nhà nước là tất yếu trong mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, để xác định đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước cần có những giải pháp đột phá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đó là:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để đặt các doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp của khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của nền kinh tế. Lấy thước đo hiệu quả kinh tế làm kim chỉ nam cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng vận hành, tiến tới xóa bỏ các rào cản, khác biệt trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp các khu vực kinh tế khác.

Ưu tiên cải cách thể chế theo hướng đồng bộ dựa trên nền tảng Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các quy định pháp luật của tổ chức nhà nước. Rà soát các quy định liên quan đến hoạt động của năm loại thị trường, gồm: Thị trường hàng hóa, tài chính, lao động, công nghệ và bất động sản để đồng bộ hóa theo hướng giảm can thiệp của Nhà nước, tăng tính thị trường.

Thể chế cần bảo đảm huy động và quản lí có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách nhà nước. Thể chế phải đảm bảo phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư dàn trải, đầu tư được xác định hiệu quả chưa thực sự rõ ràng. Thiết lập thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo, nuôi dưỡng sự sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia theo hướng xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; có chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ của người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế để các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, dần gỡ bỏ sự can thiệp của bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự tự chủ, chỉ hoạt động theo pháp luật và môi trường cạnh tranh với doanh nghiệp của các khu vực kinh tế khác hướng tới tạo hiệu ứng hiệu quả tổng thể của nền kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước cần được đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại cho đúng chức năng, nhiệm vụ đầu tàu, dẫn dắt, định hướng; đẩy mạnh tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, xử lí dứt điểm những hạn chế, yếu kém trong công tác tổ chức, quản lí, điều hành của một số doanh nghiệp nhà nước đang tạo lỗ hổng cho tham nhũng, chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.

Tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp nhà nước thực hiện vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt, tạo động lực cho nền kinh tế. Để làm được điều đó, cần có giải pháp cụ thể phát huy lợi thế, huy động và khai thác có hiệu nguồn lực mà doanh nghiệp nhà nước đang quản lí và sử dụng. Xây dựng hệ thống cơ chế vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả quyền của chủ sở hữu; vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt trong các ngành kinh tế chủ lực. Doanh nghiệp nhà nước đầu đàn, dẫn dắt cần phải “nghĩ lớn, làm lớn”, đầu tư các dự án quy mô lớn, có tính chất lan tỏa đối với nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước cần phân tách thành hai nhóm là doanh nghiệp nhà nước cung ứng các dịch vụ công ích và nhóm doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, trở thành tập đoàn lớn có sự hỗ trợ của Chính phủ. Nhóm doanh nghiệp nhà nước cung ứng các dịch vụ công ích là các doanh nghiệp giao cho tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lí, đầu tư và phát triển. Kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp nhà nước cung ứng các dịch vụ công ích là cơ sở để tổ chức đảng và nhân dân đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền cơ sở. Đối với nhóm doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, cần thực hiện cơ chế Nhà nước là một cổ đông nắm giữ cổ phần tại doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp và buộc tuân theo các quy định pháp luật về doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới trình độ quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, tăng cường tính minh bạch, tự chủ về công nghệ, có năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường trong nước và thị trường quốc tế, có tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm và dịch vụ cao, có khả năng kết nối với hệ thống doanh nghiệp tư nhân trong nước để hình thành chuỗi sản xuất hiện đại và bền vững.

Đổi mới cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án, hoạt động. Đẩy mạnh sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Thực hiện nhất quán và triệt để nguyên tắc thị trường trong thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành không phải kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành kinh doanh chính. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những ngành, lĩnh vực cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Song song với quá trình thu hẹp diện doanh nghiệp nhà nước là tiếp tục thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Thứ ba, huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Huy động mọi nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào một số dự án quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như: Năng lượng (trong đó ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng sạch), công nghiệp bán dẫn, đầu tư hạ tầng giao thông quan trọng quốc gia (như đường cao tốc, đường sắt, càng hàng không, cảng biển), hạ tầng chuyển đổi số, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, cung ứng các nguyên vật liệu đầu vào quan trọng cho sản xuất (như luyện thép, hóa dầu) trên cơ sở thế mạnh, ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp.

Khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với nhau và với các doanh nghiệp tư nhân để thực hiện các dự án quy mô lớn, nâng cao hiệu quả tổng thể chuỗi dự án nhằm phát triển chuỗi giá trị của ngành, lĩnh vực, mở rộng không gian kinh doanh trên nguyên tắc các bên cùng đạt hiệu quả. Thu hút các nguồn lực tài chính vào các doanh nghiệp, dự án lớn, quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tinh giản bộ máy, thiết lập hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích, tình trạng móc ngoặc, hình thành “lợi ích nhóm”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp.

Tăng cường áp dụng mô hình kinh doanh mới, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường để nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh. Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải, bảo đảm các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính. Chú trọng nâng cao giá trị thương hiệu, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp; tiết kiệm tối đa chi phí, tối ưu hóa các nguồn lực về vốn, đất đai của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, đẩy mạnh xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tách nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích với nhiệm vụ kinh doanh thông thường của doanh nghiệp nhà nước; tách hoạt động kinh doanh với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội của doanh nghiệp nhà nước. Xác định rõ, minh bạch chi phí cho các hoạt động phi thương mại. Mọi khoản chi từ ngân sách nhà nước cho thực hiện các nhiệm vụ phi thương mại của doanh nghiệp nhà nước phải được công bố trong báo cáo tài chính. Tăng cường giám sát các hoạt động phi thương mại để có đánh giá và công khai hiệu quả hoạt động phi thương mại đối với doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện thể chế quản lí và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường. Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Triệt để áp dụng nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đầu tư, huy động vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh. Quán triệt nguyên tắc ràng buộc ngân sách trong mọi hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, áp đặt ngân sách cứng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xác định.

Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nhà nước để thực hiện vai trò mở đường, dẫn dắt các lĩnh vực chính. Trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự được coi là một đối tượng quan trọng trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chưa có quy định, chính sách ràng buộc hợp tác, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước để phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; thiếu cơ chế tài chính phù hợp để thực hiện đầu tư, phát triển; thiếu các giải pháp cụ thể để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ. Do vậy doanh nghiệp cần đóng vai trò chủ động, là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ, trong đó doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quan trọng. Đổi mới công nghệ là nhu cầu tự thân vận động của doanh nghiệp, nhà nước chỉ tạo môi trường pháp lí thuận lợi, chứ không làm thay. Thực hiện hiệu quả và đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là chính sách hỗ trợ về tài chính nhằm thúc đẩy doanh nghiệp triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ và cải thiện năng lực quản trị công nghệ. Chú trọng tổ chức đào tạo về quản lí công nghệ và cập nhật công nghệ mới cho doanh nghiệp. Tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về đổi mới công nghệ cho cán bộ quản lí doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo, thuê chuyên gia thiết kế, sản xuất sản phẩm mới và thay đổi quy trình công nghệ. Hỗ trợ hình thành các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp khoa học - công nghệ thực hiện nghiên cứu và ứng dụng sản xuất sản phẩm mới. Hỗ trợ doanh nghiệp kinh phí sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài phát triển công nghệ, tham gia các triển lãm, hội chợ công nghệ và thiết bị ở nước ngoài. Tổ chức, phối hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc hợp tác với các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học - công nghệ để tiến tới làm chủ công nghệ nhập khẩu, qua đó nâng cao tính tự chủ và khả năng quản trị công nghệ.

Chọn lựa các doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo để thực hiện vai trò mở đường, dẫn dắt trong việc đầu tư phát triển một số ngành, lĩnh vực mới, có tính chất quan trọng của nền kinh tế, tập trung dẫn dắt trong bốn lĩnh vực chính là công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, tài chính - ngân hàng và kết cấu hạ tầng.

Thứ sáu, phát huy vai trò của tổ chức Đảng; coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức Đảng trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và quản lí cán bộ. Quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất, sai phạm trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, phòng, chống tham nhũng nhằm nắm bắt, đánh giá đúng đắn về việc chấp hành pháp luật, phát hiện sớm sai phạm, qua đó kịp thời chấn chỉnh, áp dụng các biện pháp phù hợp giúp doanh nghiệp khắc phục những tồn tại, hạn chế để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tóm lại, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động loại hình này, qua đó, nhóm tác giả mong muốn góp phần đạt được mục tiêu đề ra theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: Mục tiêu đạt 100% tập đoàn kinh tế nhà nước có dự án triển khai mới năm 2025, trong đó có một số dự án đầu tư tiêu biểu, có tính chất dẫn dắt, lan tỏa, mang thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước; phấn đấu có ít nhất 25 doanh nghiệp nhà nước có vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán đạt trên 1 tỉ USD, trong đó có ít nhất 10 doanh nghiệp đạt mức trên 5 tỉ USD và 100% doanh nghiệp nhà nước có định hướng và thực hiện chuyển dịch đầu tư, hướng đến các dự án đầu tư, sử dụng công nghệ xanh, sạch và giảm thải khí carbon; đóng góp của các tập đoàn kinh tế nhà nước vào ngân sách nhà nước bình quân tăng 5% - 10% trong giai đoạn 2021 - 2025.


1 Nguyễn Hòa (2022), 8 giải pháp nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, https://congthuong.vn
2 Kim Oanh (2022), Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, https://dbndnghean.vn
3 Hoàng Lan (2023), Doanh thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 1,41 triệu tỉ đồng năm 2023 - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới, https://vneconomy.vn

4 Hoàng Lan (2023), Doanh thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 1,41 triệu tỉ đồng năm 2023 - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới, https://vneconomy.vn


Tài liệu tham khảo:

1. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021.

2. Lê Anh (2022), Kì 2: Tăng cường hiệu quả của khối kinh tế nhà nước trong việc “dẫn lối” với nền kinh tế, https://dangcongsan.vn

3. Kim Oanh (2022), Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, https://dbndnghean.vn

4. Nguyễn Hòa (2022), 8 giải pháp nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, https://congthuong.vn

5. Hoàng Lan (2023), Doanh thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 1,41 triệu tỉ đồng năm 2023 - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới, https://vneconomy.vn

6. Doãn Tước (2021), Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, http://tapchiqptd.vn

7. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2020), Đánh giá thực hiện vai trò kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội của giai đoạn 2011 - 2020; quan điểm, phương hướng giai đoạn 2021 - 2030.


ThS. Lê Thị Thu Hương (Viện Kinh tế và Chính trị thế giới)

PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình (Khoa Kinh tế, Đại học Mở Hà Nội)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Xem thêm
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô