Chương trình tín dụng chính sách: 20 năm phát huy hiệu quả

Hoạt động ngân hàng
Chương trình tín dụng chính sách với nòng cốt là các hoạt động cho vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang mang lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phù hợp với thực tiễn, là trụ cột quan trọng trong chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần hạn chế “tín dụng đen”, tạo nguồn lực cho tỉnh An Giang thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
aa

Chương trình tín dụng chính sách với nòng cốt là các hoạt động cho vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang mang lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phù hợp với thực tiễn, là trụ cột quan trọng trong chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần hạn chế “tín dụng đen”, tạo nguồn lực cho tỉnh An Giang thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Dấu ấn 20 năm

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chăm lo công tác giảm nghèo để không ai bị bỏ lại phía sau trên địa bàn tỉnh An Giang, NHCSXH tỉnh An Giang được thành lập theo Quyết định số 76/QĐ-HĐQT ngày 14/01/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCSXH Việt Nam, nhằm thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ.

Sau 20 năm hoạt động, được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành có liên quan và các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác, cùng với sự phấn đấu, nỗ lực vượt khó, NHCSXH tỉnh An Giang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Thành quả là, số hộ thoát nghèo từ năm 2019 đến năm 2021 là 32.865 hộ.



Sau 20 năm hoạt động, hoạt động của NHCSXH tỉnh An Giang đã góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội
và xây dựng nông thôn mới tại địa phương

Về kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 trên địa bàn tỉnh An Giang tại Quyết định số 1629/QĐ-UBND ngày 01/7/2022, theo đó, số hộ nghèo là 20.129 hộ, chiếm tỷ lệ 3,82%; hộ cận nghèo là 31.288 hộ, chiếm tỷ lệ 5,93%. Tỉnh An Giang có một huyện nghèo giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Đáng chú ý, dấu ấn 20 năm qua, nguồn vốn cho vay các đối tượng chính sách trên địa bàn tỉnh An Giang không ngừng tăng lên. Tổng nguồn vốn đến ngày 31/8/2022 là 3.988,2 tỷ đồng, tăng 3.857 tỷ đồng (tăng hơn 30 lần) so với khi mới thành lập, trong đó, nguồn vốn cân đối từ Trung ương là 3.757,3 tỷ đồng, tăng hơn 3.632,9 tỷ đồng (tăng hơn 30 lần) so với khi mới thành lập.

Vốn huy động là 576,8 tỷ đồng, tăng 573,4 tỷ đồng (tăng hơn 170 lần so với khi mới thành lập), trong đó, tiền gửi của tổ chức, cá nhân là 183 tỷ đồng, tăng 179,6 tỷ đồng (tăng hơn 54 lần so với khi mới thành lập); tiền gửi của tổ viên Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) là 393,8 tỷ đồng, tăng 100% so với khi mới thành lập. Nguồn vốn nhận ủy thác đầu tư tại địa phương là 230,9 tỷ đồng (tăng hơn 34 lần so với khi mới thành lập), trong đó, ngân sách tỉnh là 142,2 tỷ đồng, ngân sách huyện là 88,7 tỷ đồng.

Thông qua nguồn vốn vay của NHCSXH tỉnh An Giang đã tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao sức sản xuất hàng hóa, cải thiện đời sống, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương, đặc biệt góp phần ngăn chặn cho vay nặng lãi ở nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương. Kết quả tổng dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách trên địa bàn tỉnh An Giang đến ngày 31/8/2022 đạt 3.974,7 tỷ đồng với 146.662 khách hàng còn dư nợ. Dư nợ tín dụng tăng 3.848,6 tỷ đồng (tăng hơn 31 lần so với khi thành lập); tổng nợ quá hạn và nợ khoanh là 138,5 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,48% trên tổng dư nợ, trong đó, nợ quá hạn là 40,3 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,01% tổng dư nợ; nợ khoanh là 98,1 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 2,47% tổng dư nợ. Dư nợ tín dụng bình quân đạt 27 triệu đồng/hộ.

Với mạng lưới hoạt động rộng khắp đến tất cả các xã, phường, thị trấn, các khóm, ấp trên toàn tỉnh An Giang, hoạt động tín dụng chính sách trên địa bàn được triển khai thông qua 156 điểm giao dịch tại xã, với 3.207 tổ TK&VV phân bố rộng khắp trên tất cả các khóm, ấp, vực. Dư nợ tín dụng bình quân của tổ TK&VV là 1,230 tỷ đồng, trong đó, tổ TK&VV xếp loại tốt là 2.039 tổ, chiếm tỷ lệ 63,58%; tổ TK&VV xếp loại khá là 651 tổ, chiếm tỷ lệ 20,3%; tổ TK&VV xếp loại trung bình là 465 tổ, chiếm tỷ lệ 14,5%; tổ TK&VV xếp loại yếu là 52 tổ, chiếm tỷ lệ là 1,62%.

Bên cạnh đó, tại các điểm giao dịch lưu động công khai, các chính sách tín dụng ưu đãi của Đảng, Chính phủ, các quy trình, thủ tục của NHCSXH được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi, công khai dư nợ, thời gian cho vay, lãi suất cho vay, số điện thoại đường dây nóng… Việc tổ chức giao dịch tại xã đã giúp cho người dân tiết kiệm chi phí đi lại, chính quyền, các tổ chức hội nhận ủy thác giám sát toàn bộ quá trình giao dịch tại xã, kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng chính sách trên địa bàn, xử lý kịp thời các tồn tại phát sinh; đồng thời giúp công khai hóa hoạt động tín dụng chính sách xã hội.

Thời gian qua, hoạt động giao dịch lưu động tại xã đã liên tục được cải tiến, đảm bảo phục vụ nhanh nhất, thuận lợi nhất cho người nghèo và các đối tượng chính sách, được các cấp chính quyền và nhân dân đánh giá cao, đồng tình ủng hộ; đến nay, cơ bản các nghiệp vụ của NHCSXH đã được giải quyết tại các điểm giao dịch lưu động tại xã.

Đến ngày 31/8/2022, NHCSXH tỉnh An Giang đã ủy thác cho 597 tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, quản lý 3.207 tổ TK&VV, với dư nợ ủy thác là 3.945,5 tỷ đồng, chiếm 99,27% trên tổng dư nợ; nợ quá hạn và nợ khoanh là 138,2 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,5% trên tổng dư nợ, trong đó, nợ quá hạn là 40,1 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,02%.

Kết quả triển khai các chương trình tín dụng chính sách

của NHCSXH An Giang từ năm 2003 đến 31/8/2022


Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo thống kê của NHCSXH tỉnh An Giang


Từ thực tiễn và kết quả triển khai các chương trình tín dụng chính sách tại An Giang đã góp phần tích cực trong công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới; góp phần hạn chế tình trạng học sinh, sinh viên phải bỏ học do nguyên nhân gia đình gặp khó khăn về tài chính, nhiều hộ gia đình xây dựng được các công trình nước sạch và vệ sinh, nhiều hộ nghèo có nhà ở ổn định, khang trang hơn… bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Vốn tín dụng chính sách đã giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần ngăn chặn cho vay nặng lãi ở nông thôn; làm quen với việc vay, trả nợ ngân hàng, thay đổi cơ bản nhận thức, sử dụng vốn có hiệu quả, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hoạt động gửi tiền thông qua tổ TK&VV, hộ nghèo và các đối tượng chính sách đã có ý thức tiết kiệm, dành dụm để tạo lập nguồn vốn tự có và tích lũy cho tương lai.

Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước; thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh quốc phòng; phát triển nguồn nhân lực, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu; tập hợp lực lượng, phát triển hội viên của các tổ chức chính trị - xã hội.

Song song với kết quả nỗ lực giúp người dân địa phương thoát nghèo, NHCSXH tỉnh An Giang còn thực hiện tốt công tác an sinh xã hội. Công đoàn cơ sở NHCSXH tỉnh An Giang đã vận động cán bộ, đoàn viên công đoàn, người lao động đóng góp ủng hộ quỹ tình nghĩa, quỹ an sinh xã hội, hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, hạn hán xâm nhập mặn, xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma, ủng hộ hướng về Biển Đông, ủng hộ bò giống giúp đồng bào biên giới, ủng hộ vì Trường Sa thân yêu, tiếp sức đến trường và trao tặng xe đạp cho các em mùa tựu trường… tổng số tiền vận động đóng góp gần 3,9 tỷ đồng; ngoài ra, còn đóng góp trực tiếp để hỗ trợ “10 lá chưa lành” thông qua chương trình “Cặp lá yêu thương” do NHCSXH phối hợp với Trung tâm Tin tức VTV24 thực hiện với số tiền hỗ trợ hằng tháng là 500.000 đồng/lá, tổng số tiền đã hỗ trợ hơn 456 triệu đồng; hỗ trợ cho 02 trẻ em mồ côi do dịch Covid-19, mức hỗ trợ 2 triệu đồng/trẻ em/tháng thông qua chương trình “Mẹ đỡ đầu” và “Nối vòng tay yêu thương” do Hội liên hiệp Phụ nữ và Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phát động, số tiền hỗ trợ 48 triệu đồng; nhận phụng dưỡng suốt đời 05 mẹ Việt Nam Anh hùng với số tiền phụng dưỡng hằng tháng 1 triệu đồng/mẹ;

cất 02 căn nhà cho gia đình có hoàn cảnh khó khăn với tổng số tiền hơn 79 triệu đồng; đồng thời còn thường xuyên ủng hộ các chương trình an sinh xã hội, các hoạt động từ thiện - xã hội tại địa phương như ủng hộ vì người nghèo số tiền gần 235 triệu đồng; ủng hộ địa phương trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 số tiền 21 triệu đồng; công tác đền ơn đáp nghĩa có trên 45 lượt ủng hộ với số tiền 179 triệu đồng; ủng hộ công tác bảo trợ trẻ em khuyết tật số tiền 162 triệu đồng; các hoạt động đóng góp ủng hộ khác là 98 lượt với số tiền 37 triệu đồng.

Những vấn đề đặt ra

Để tiếp tục duy trì kết quả đã đạt được, phát huy hơn nữa hiệu quả của tín dụng chính sách, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh An Giang, cùng với việc bám sát các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, NHCSXH tỉnh An Giang quyết tâm nâng cao năng lực hoạt động, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao với các mục tiêu cụ thể, như sau:

Một là, tăng trưởng dư nợ bình quân hằng năm 8 - 10%, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh dưới 3%, trong đó, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 0,5%; tỷ lệ thu nợ gốc đến hạn từ 90% trở trên; tỷ lệ thu lãi đạt 100% lãi phát sinh hằng tháng; chất lượng hoạt động giao dịch xã đạt trên 95 điểm; chất lượng hoạt động tổ TK&VV trên 88 điểm; tỷ lệ tổ viên tham gia gửi tiền thông qua tổ TK&VV hằng tháng trên 60%.

Hai là, hằng năm, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh An Giang từ 0,5% theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang đề ra trong nhiệm kỳ 2020 - 2025; giải quyết việc làm bình quân giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 30.000 người/năm.

Ba là, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nghiệp vụ phù hợp với hoạt động của đơn vị để có 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện đều được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ do NHCSXH cung cấp.

Bốn là, phối hợp lồng ghép có hiệu quả hoạt động tín dụng chính sách với hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và hoạt động các tổ chức chính trị - xã hội nhằm mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.

Năm là, đảm bảo chất lượng hoạt động của các tổ TK&VV trên địa bàn để chuyển tải kịp thời, có hiệu quả, chất lượng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đến các đối tượng thụ hưởng, phấn đấu không để phát sinh tổ xếp loại trung bình, tổ xếp loại yếu, tổ hoạt động không hiệu quả trên địa bàn.

Sáu là, phấn đấu từ nay đến năm 2030, xây dựng NHCSXH tỉnh An Giang thành một đơn vị có chất lượng tín dụng ổn định, bền vững, làm tốt chức năng tín dụng ưu đãi của Nhà nước và phát triển các dịch vụ tài chính đối với người nghèo, có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách khác.

Giải pháp nâng cao năng lực hoạt động thời gian tới

Nhằm đạt được mục tiêu trên, NHCSXH tỉnh An Giang phấn đấu thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục tham mưu Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư, Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư và Quyết định số 1630/QĐ-TTg ngày 28/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ; tập trung triển khai thực hiện Công văn số 258-CV/TU ngày 23/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Kế hoạch số 246/KH-UBND ngày 04/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt để thực hiện tốt mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ các điều kiện cần thiết đối với hoạt động của NHCSXH, bố trí kinh phí ủy thác của ngân sách địa phương bổ sung nguồn vốn ủy thác qua NHCSXH để triển khai cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách.

Thứ hai, tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, triển khai có hiệu quả toàn diện các mặt hoạt động; tập trung các nguồn lực về con người và nguồn vốn để triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách; tổ chức thực hiện tốt chủ trương huy động các nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, hằng năm tham mưu cho Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục dành một phần nguồn vốn từ ngân sách địa phương để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; hỗ trợ cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho NHCSXH; thường xuyên rà soát nhu cầu vay vốn, phấn đấu đáp ứng 100% vốn vay cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện vay vốn.

Thứ ba, thực hiện tốt phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách xã hội đặc thù và hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương; tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội; trong đó, đặc biệt coi trọng chất lượng tín dụng, công tác ủy thác của các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác, chất lượng hoạt động của các tổ TK&VV, hoạt động giao dịch tại xã, xây dựng hình ảnh NHCSXH phục vụ chuyên nghiệp, tận tình, chu đáo với phương châm “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, chú trọng công tác kiểm tra của Ban Đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH các cấp, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, của các tổ chức chính trị - xã hội… để kịp thời nắm bắt, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đề xuất kiến nghị của cơ sở và người dân góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả vốn tín dụng chính sách.

Thứ năm, thực hiện nghiêm túc công tác bình xét cho vay, đảm bảo đúng đối tượng, đúng quy trình, thủ tục, mức vay phù hợp; đặc biệt, hộ vay phải có phương án rõ ràng, hiểu và thực hiện đúng trách nhiệm, quyền lợi khi vay vốn; đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, giúp người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả. Tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trong việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ; kết hợp với NHCSXH trong việc đào tạo, tập huấn bồi dưỡng để lựa chọn những Tổ trưởng tổ TK&VV có năng lực, kiến thức quản lý kinh tế và nghiệp vụ ngân hàng thông qua việc bình xét cho vay chính xác, sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện nhiệm vụ đúng quy định.

Thứ sáu, tăng cường công tác chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, xác định rõ nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trong chương trình, kế hoạch, hoạt động thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp.

Thứ bảy, tập trung tuyên truyền về chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước; hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; phổ biến mô hình vay vốn làm ăn hiệu quả; các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

Thứ tám, triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách gắn với tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức tự vươn lên của hộ nghèo và đối tượng chính sách, giảm dần sự trông chờ, lệ thuộc vào trợ cấp của Nhà nước…

Thứ chín, tiếp tục phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh An Giang, các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng các chủ trương tín dụng chính sách xã hội; nâng cao hiệu quả giám sát của toàn dân đối với về chính sách tín dụng ưu đãi trên địa bàn; các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nội dung công việc được ủy thác; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH và chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách, hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn, tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, hướng dẫn người vay sử dụng vốn có hiệu quả; đẩy mạnh việc khai thác, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thực tiễn phục vụ nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả cho hoạt động chuyên môn.

Trâm Anh
NHNN Chi nhánh tỉnh An Giang

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Xem thêm
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng