Chính sách vốn đầu tư gắn với mục tiêu ổn định tài chính tại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Hệ thống tài chính với vai trò là kênh dẫn vốn tới các khu vực trong nền kinh tế là bộ phận quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi mô hìn...
aa

Hệ thống tài chính với vai trò là kênh dẫn vốn tới các khu vực trong nền kinh tế là bộ phận quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi mô hình tăng trưởng, trong đó có các chính sách về vốn đầu tư. Các tác động này bao gồm những yếu tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính và cả các yếu tố gây bất ổn tài chính.

Trong bài viết này, tác giả đánh giá tác động của nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đến một số chỉ tiêu ổn định tài chính gồm thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài, tăng trưởng tín dụng và tỷ giá hối đoái. Đồng thời, sử dụng mô phỏng Monte Carlo, tác giả cũng xác định ngưỡng an toàn cho các chỉ tiêu ổn định tài chính và biên độ dao động cho phép của các bộ phận vốn đầu tư của nền kinh tế. Kết quả từ mô hình nghiên cứu cho thấy, khu vực vốn đầu tư nhà nước cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn về tốc độ tăng trưởng so với hai khu vực còn lại là tư nhân và nước ngoài.

1. Giới thiệu

Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là một đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thực hiện bởi tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn của nó, đặc biệt là trong kỷ nguyên của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Kế thừa kết quả của những nghiên cứu này cho thấy, trong mô hình tăng trưởng thời gian qua, nổi bật rõ vai trò quan trọng của vốn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế hiện đại đã chỉ ra việc gia tăng số lượng vốn cho tăng trưởng kinh tế là có giới hạn. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Ketels et al. (2010) cũng nhấn mạnh, Việt Nam cần phải vượt ra khỏi mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên chi phí lao động thấp và đầu tư vốn nếu không muốn bị tắc lại tại nhóm nước thu nhập trung bình thấp và không thể tiếp tục bứt phá.

Như vậy, việc chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng tới yếu tố chất lượng là nhiệm vụ tất yếu. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với sự cắt giảm vốn đầu tư mà ngược lại, nhắm đến sự điều chỉnh trong chính sách đầu tư và cách thức quản lý vốn đầu tư hợp lý hơn. Do đó, sự gia tăng vốn cho tăng trưởng sẽ vẫn cần thiết, tuy nhiên, sự gia tăng này có thể gây bất ổn định tài chính, từ đó, ảnh hưởng xấu trở lại đối với tăng trưởng.

Hệ thống tài chính trong nền kinh tế đóng vai trò như hệ huyết mạch trong cơ thể giúp điều phối và trung chuyển vốn từ nơi dư thừa đến nơi thiếu hụt. Không những vậy, đây còn là kênh dẫn truyền tác động của các chính sách tới nền kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ do khả năng “tạo tiền” của hệ thống ngân hàng thương mại. Một hệ thống tài chính ổn định sẽ làm giảm nguy cơ, rủi ro gián đoạn quá trình phân bổ nguồn vốn cho các khu vực kinh tế, do đó, đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Sự mất ổn định tài chính sẽ tác động xấu đến môi trường kinh tế vĩ mô, các hoạt động kinh tế và những hệ lụy như đã diễn ra từ các cuộc khủng hoảng tài chính trước đây.

Có một thực tế là, các biện pháp giám sát ổn định tài chính không đảm bảo tăng trưởng nhanh, ngược lại, nó có thể kiểm soát và kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, các chuyên gia và nhà quản lý cho rằng, đó là một giới hạn an toàn cho nền kinh tế nhằm đảm bảo tăng trưởng bền vững. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung giải quyết câu hỏi về việc khai thác nguồn vốn đầu tư xã hội nên ở mức nào để đảm bảo được mục tiêu ổn định tài chính.

2. Tổng quan nghiên cứu

Do tính chất phức tạp của hệ thống tài chính, rất khó để đưa ra một định nghĩa chính xác cũng như các tiêu chí đo lường mức độ ổn định tài chính phù hợp với mọi quốc gia. Mặc dù hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức cho thuật ngữ “ổn định tài chính”, tuy nhiên, theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thuật ngữ này có thể bao gồm nội hàm sau:

Thứ nhất, các yếu tố chính của hệ thống tài chính (thị trường tài chính, các định chế tài chính, hạ tầng tài chính) thực hiện các chức năng của nó “thông suốt”, góp phần phân bổ có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế.

Thứ hai, rủi ro cấp độ hệ thống cần được đánh giá chính xác và quản lý hiệu quả để tránh khả năng sụp đổ hệ thống tài chính.

Thứ ba, để đảm bảo mục tiêu duy trì ổn định của cả hệ thống tài chính, đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong hệ thống giám sát tài chính quốc gia; và trong phần lớn các mô hình tổ chức hệ thống giám sát tài chính, NHTW là cơ quan có chức năng chủ đạo trong việc thực hiện chức năng ổn định tài chính.

Trong khi đó, Laker (1999) lập luận rằng, mục tiêu của sự ổn định tài chính, theo nghĩa rộng, có thể được định nghĩa là việc tránh sự gián đoạn đối với hệ thống tài chính nhằm hạn chế khả năng gây ra tổn thất đáng kể cho nền kinh tế thực. Theo ông, sự bất ổn về tài chính có thể được phân thành ba loại: (1) khủng hoảng ngân hàng, trong đó đề cập đến các khoản cho vay hoặc giao dịch thua lỗ của một hoặc nhiều ngân hàng; (2) tỷ giá hối đoái (hoặc cán cân thanh toán), trong đó đề cập đến áp lực phải chịu khi duy trì một chế độ tỷ giá hối đoái cố định; và cuối cùng (3) khủng hoảng thị trường tài chính, trong đó đề cập đến sự thay đổi trong kỳ vọng hoặc tâm lý và gây ra sự gia tăng mạnh về biến động giá. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản phân loại bất ổn tài chính như trên thì không đủ để dự báo sự rối loạn của hệ thống tài chính, do đó, Laker đưa ra một nhóm các chỉ số về sự bất ổn tài chính mà Ngân hàng Trung ương có thể theo dõi được. Những chỉ số này liên quan đến bốn khu vực tụ vốn cụ thể: (1) hộ gia đình, doanh nghiệp và nền kinh tế thực tế; (2) khu vực tài chính; (3) khu vực chính phủ; và (4) khu vực nước ngoài. (Bảng 1)

Liên quan đến công cụ để đo lường ổn định tài chính, hiện nay, rất nhiều quốc gia sử dụng bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators - FSIs) do Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) xây dựng và công bố. Bộ chỉ số này bao gồm 40 chỉ số tài chính, có vai trò quan trọng trong việc đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống tài chính của quốc gia cũng như giúp các nhà quản lý dự đoán, cảnh báo sớm và đưa ra các biện pháp hợp lý nhằm hạn chế những bất ổn, rủi ro có thể xảy ra, góp phần ngăn chặn, giảm thiểu hậu quả của khủng hoảng tài chính.

Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa ổn định tài chính với một số yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP, lạm phát và nợ công. Mặc dù phân tích ở các khu vực và khoảng thời gian khác nhau nhưng Manu et al. (2011) và Ahmed et al. (2015) đều chỉ ra tác động tích cực của ổn định tài chính đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia được nghiên cứu. Điều đáng chú ý là, trong kết quả mô hình của mình, Ahmed et al. (2015) còn tìm thấy tác động tiêu cực của chỉ tiêu tăng trưởng GDP/người đến sự ổn định tài chính. Khác với cách tiếp cận tuyến tính truyền thống, Assoumou Ondo (2017) sử dụng phương pháp ước lượng phi tuyến để mô tả mối quan hệ giữa nợ công và ổn định tài chính cho các quốc gia thành viên của Cộng đồng kinh tế và Liên minh tiền tệ Trung Phi (EMCCA). Kết quả cho thấy, nợ công có tác động tích cực đến sự ổn định tài chính trong EMCCA khi giá dầu dưới 94,1 USD và ngược lại, khi giá dầu vượt ngưỡng này sẽ gây ra sự bất ổn định tài chính dưới sự ảnh hưởng của nợ công.

3. Phương pháp nghiên cứu

Xác định các chỉ tiêu ổn định tài chính

Trong bài viết này, tác giả xây dựng các chỉ tiêu ổn định tài chính trên cơ sở tiếp cận theo quan điểm của Laker (1999). Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội được chia làm 3 nhóm cơ bản là: (1) Vốn từ khu vực nhà nước; (2) Vốn từ khu vực tư nhân; và (3) Vốn FDI. Sở dĩ có sự phân chia này là bởi mỗi nhóm vốn khác nhau sẽ có tác động đến hệ thống tài chính cũng như các chỉ tiêu ổn định tài chính khác nhau, cụ thể là:

- Vốn từ khu vực nhà nước liên quan tới các khoản chi tiêu của Chính phủ, vì vậy, biến động của dòng vốn này sẽ ảnh hưởng tới tài chính công, đặc biệt là thâm hụt ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, các khoản chi tiêu công một phần cũng được tài trợ từ vay nợ nước ngoài và do đó, cũng sẽ ảnh hưởng tới tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam. Như vậy, liên quan đến dòng vốn từ khu vực nhà nước, tác giả lựa chọn 2 chỉ tiêu ổn định tài chính là: thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ nước ngoài.

- Vốn từ khu vực tư nhân liên quan tới hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại và biến động trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, biến động của dòng vốn này sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng tư nhân và VN index. Tuy nhiên, do đặc thù hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn giữ vai trò trọng yếu với tổng tài sản chiếm khoảng 90% tổng tài sản của các định chế tài chính. Do đó, biến động của bộ phận này có sức ảnh hưởng lớn tới toàn hệ thống tài chính, bao gồm cả thị trường chứng khoán. Ngoài ra, về mặt số liệu sử dụng trong mô hình, việc đưa VN index về chỉ số trung bình năm để đồng nhất tần số quan sát với các biến khác sẽ không phù hợp. Vì vậy, tác giả lựa chọn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và bỏ qua chỉ tiêu VN index. Ngoài ra, vốn đầu tư tư nhân cũng được tài trợ một phần từ vay nợ nước ngoài. Như vậy, liên quan tới dòng vốn từ khu vực tư nhân, 2 chỉ tiêu ổn định tài chính được lựa chọn là: tăng trưởng tín dụng và nợ nước ngoài.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự ra vào của các luồng ngoại tệ sẽ ảnh hưởng tới thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Sau khi gia nhập WTO, FDI có xu hướng biến động khá mạnh, tăng giảm liên tục với biên độ dao động lớn, gây áp lực lên tỷ giá hối đoái. Vì vậy, liên quan tới biến động của dòng FDI, tác giả lựa chọn chỉ tiêu ổn định tài chính là tỷ giá hối đoái.

Mô hình nghiên cứu và mô tả dữ liệu

Với việc lựa chọn các chỉ tiêu như trên, tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để kiểm chứng sự ảnh hưởng của các khu vực vốn đầu tư đến ổn định tài chính ở Việt Nam. Sau đó, từ số liệu mẫu thu thập được tại các năm Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính (giai đoạn 1997-1999 và 2008-2011), tác giả xác định ngưỡng tối đa của các chỉ tiêu này (với hàm ý vượt quá giá trị ngưỡng thì sẽ xảy ra bất ổn trong hệ thống tài chính). Đồng thời, sử dụng mô phỏng Monte Carlo, tác giả xây dựng biên độ biến động của các khu vực vốn đầu tư nhằm đảm bảo tác động của vốn không làm các chỉ tiêu ổn định tài chính vượt ngưỡng an toàn. Tóm tắt các biến được sử dụng trong mô hình như sau: (Bảng 2)

4. Kết quả và thảo luận

Trên cơ sở lựa chọn các biến chỉ tiêu ổn định tài chính, với dữ liệu từ năm 1995 đến năm 2017, tác giả tiến hành hồi quy chúng theo các biến đại diện khu vực vốn đầu tư. Việc sử dụng thêm các biến trễ vào mô hình xuất phát từ độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư, đặc biệt là ở đầu tư công. (Bảng 3)


Bảng 3 cho thấy, tăng trưởng vốn đầu tư ở các khu vực đều có ảnh hưởng đáng kể đến các chỉ tiêu ổn định tài chính. Cụ thể, khi tốc độ tăng trưởng tỷ lệ FDI/GDP tăng 1% thì sự thay đổi của tỷ giá hối đoái so với năm trước giảm 0,1731%. Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, tăng trưởng tỷ lệ vốn đầu tư ở khu vực này thêm 1% sẽ dẫn đến sự tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP thêm 0,529%. Đối với chỉ tiêu nợ nước ngoài, kết quả ước lượng cho thấy, tác động nghịch chiều giữa vốn đầu tư nhà nước và vốn đầu tư tư nhân. Theo đó, vốn đầu tư nhà nước tăng lên ở năm trước sẽ dẫn đến gánh nặng nợ cho quốc gia nhiều hơn trong năm sau và ngược lại, sự gia tăng vốn đầu tư tư nhân lại đem đến kết quả tích cực, làm giảm tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP. Cuối cùng, ở chỉ tiêu thâm hụt ngân sách, có thể thấy rõ tác động tích cực của biến trễ tăng trưởng tỷ lệ vốn đầu tư nhà nước. Như vậy, khi Chính phủ mới tiến hành đầu tư sẽ làm trầm trọng hơn vấn đề thâm hụt ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sau đó khi phần vốn đầu tư này phát huy tác dụng sẽ góp phần làm giảm thâm hụt ở những năm sau.

Sử dụng mô phỏng Monte Carlo, tác giả tiếp tục xác định biên độ dao động của yếu tố vốn trong từng khu vực để đảm bảo mục tiêu ổn định tài chính, cụ thể như sau:

- Đối với vốn đầu tư nhà nước và thâm hụt ngân sách

Theo kinh nghiệm quốc tế, trong điều kiện bình thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nhiều năm qua, giới hạn này được Quốc hội đề xuất là 5% GDP/năm. Do đó, tác giả chọn ngưỡng tối đa cho biến DEFICIT = 5%.

Từ kết quả hồi quy mối quan hệ giữa biến động vốn đầu tư nhà nước với thâm hụt ngân sách, chạy Monte Carlo với NNIGROWTH nhận 10.000 giá trị ngẫu nhiên từ -34,84% đến 39,67%, sau khi loại đi 3865 giá trị với DEFICIT lớn hơn 5% còn lại 6135 giá trị của NNIGROWTH phù hợp với điều kiện ngưỡng an toàn của DEFICIT.

Như vậy, để đảm bảo thâm hụt ngân sách không vượt quá 5% GDP thì tăng trưởng vốn đầu tư nhà nước/GDP nên nằm trong khoảng (-34,84%;34.91%)

- Đối với vốn đầu tư tư nhân và tăng trưởng tín dụng

Dựa vào số liệu từ năm 1995 đến 2017, giai đoạn trước và sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính chứng kiến tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP thay đổi rất lớn. Tác giả chọn giá trị lớn nhất (1999) và nhỏ nhất (năm 2011) của biến CREDITGROWTH trong mẫu quan sát làm giới hạn để xác định biên độ dao động của vốn đầu tư tư nhân.

Chạy Monte Carlo với TNIGROWTH nhận 10.000 giá trị ngẫu nhiên, sau khi loại đi 2783 giá trị với CREDITGROWTH không nằm trong khoảng (-11,26%; 40,06%) còn lại 7217 giá trị của TNIGROWTH phù hợp.

Như vậy, để đảm bảo không gây áp lực lên hệ thống tài chính thì tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân/GDP sẽ dao động trong biên độ (-4,929%; 11,217%)

- Đối với FDI và tỷ giá hối đoái

Với cách làm tương tự, từ số liệu mẫu, tác giả chọn khoảng giá trị (-0,051%; 20.262%) của biến EXCHANGE làm giới hạn để xác định mức độ biến thiên của vốn FDI.

Kết quả chạy Monter Carlo với FDIGROWTH nhận 10.000 giá trị ngẫu nhiên cho thấy, có 9784 giá trị FDIGROWTH thỏa mãn điều kiện biến EXCHANGE nằm trong khoảng đã được lựa chọn. Như vậy, để kiểm soát được tỷ lệ thay đổi của tỷ giá hối đoái thì tăng trưởng FDI/GDP nên trong biên độ (-73,73%; 39,62%).

- Đối với vốn đầu tư nhà nước, tư nhân và nợ nước ngoài

Với chỉ tiêu nợ nước ngoài, tác giả sử dụng quan điểm của IMF về tiêu chí đánh giá an toàn nợ, theo đó, ngưỡng an toàn của nợ nước ngoài Việt Nam nên ở mức 40% GDP.

Kết quả chạy Monter Carlo với NNIGROWTH và TNIGROWTH nhận 10.000 giá trị ngẫu nhiên cho thấy, có 1780 giá trị vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư tư nhân thỏa mãn điều kiện biến EXDEBT nhỏ hơn 40%. Từ đó rút ra kết luận, để kiểm soát nợ nước ngoài bền vững thì biên độ dao động của tăng trưởng vốn đầu tư nhà nước/GDP và vốn đầu tư tư nhân/GDP lần lượt trong khoảng (-12,93%, 6,01%) và (-32,06%, 37,72%) (Bảng 4)


Tóm lại, với mục đích đồng thời đảm bảo cả 4 chỉ tiêu ổn định tài chính theo ngưỡng an toàn đã lựa chọn thì tăng trưởng vốn đầu tư nhà nước/GDP sẽ chỉ nên dao động trong khoảng (-12,93%; 6,01%), tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân/GDP là (-4,929%; 11,217%) và tăng trưởng FDI/GDP có biên độ dao động rộng nhất với mức tăng trưởng có thể cho phép đạt tới 39,62%.

5. Kết luận và hàm ý chính sách

Ổn định tài chính luôn được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ (cụ thể là Ngân hàng Nhà nước) không chỉ bởi nó đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định giá cả mà còn góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững. Để thực hiện mục tiêu này có hiệu quả, vốn đầu tư từ các khu vực cần được kiểm soát trong biên độ nhất định, tránh xu hướng tăng giảm quá mức, ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của hệ thống tài chính.

Từ kết quả của mô hình nghiên cứu, có thể thấy, khu vực vốn đầu tư nhà nước cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn về tốc độ tăng trưởng so với hai khu vực còn lại. Để làm được điều này, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, cần tăng cường kỷ luật tài khóa, đặc biệt là trong vấn đề chi ngân sách nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí. Đồng thời, cần phải chỉ rõ những sai phạm trong việc sử dụng ngân sách thuộc về trách nhiệm của cơ quan nào, ở trung ương hay địa phương, có kế hoạch khắc phục cụ thể và tính toán đưa vào dự toán ngân sách trong năm sau.

Ở khu vực tư nhân, học tập kinh nghiệm các nước khác có thu nhập trung bình tương tự như Việt Nam, cần thúc đẩy đầu tư trong khu vực này trong tương lai, biến nó thành nguồn tài chính chính cho phát triển kinh tế bền vững. Muốn làm được như vậy, Chính phủ phải tạo được một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước thông qua hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và sửa đổi chính sách thu hút FDI. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận đất đai và tín dụng cũng rất quan trọng để doanh nghiệp có cơ hội gia nhập thị trường và tham gia chuỗi cung ứng trong nước cũng như toàn cầu.

Đối với khu vực FDI, mặc dù theo kết quả mô hình cho thấy, biên độ dao động cho phép tăng trưởng ở khu vực này khá lớn nhưng cần phải chuyển hướng từ thu hút số lượng sang nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam nên có các chính sách thu hút mang tính chất dài hạn, hạn chế ưu đãi bằng thuế và các đặc quyền, chuyển sang ưu đãi thông qua các giá trị gia tăng trong tương lai và hiệu quả đầu tư.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Ahmed, K., Juliot, M., Abid, I. (2015), Financial Development, Financial Instability and Economic Growth: The Case of Maghreb Countries, International Journal of Economics and Financial Issues, 5(4), 1043-1054.

Assoumou Ondo (2017), Public debt and financial stability: The case of economic community and monetary union of central Africa (EMCCA), Journal of Economics and International Finance, 9(9), 89-94.
IMF (2006), Compilation Guide for Financial Soundness Indicators.

Ketels, C., Nguyen, C., Nguyen, A., & Do, H. (2010), Vietnam Competitiveness Report, Central Institute for Economic Management.

Laker (1999), Monitoring Financial System Stability, Reserve Bank of Australia Bulletin.

Manu, L., Adjasi, C., Abor, J., & Harvey, S. (2011), Financial stability and economic growth: a cross-country study, International Journal of Financial Services Management, 5(2), 121-138.UNDP (2018), Tài chính cho phát triển bền vững ở Việt Nam.

ThS. Trần Thị Khánh Li

TCNH số 19/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng