Các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm trong thực tế cấp tín dụng

Nghiên cứu - Trao đổi
Hiện nay, trên thực tế, có hai biện pháp cơ bản để xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) là xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng và xử lý TSBĐ bằng biện pháp tố tụng... Xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụn...
aa

Hiện nay, trên thực tế, có hai biện pháp cơ bản để xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) là xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng và xử lý TSBĐ bằng biện pháp tố tụng...



Xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng là cơ chế cho phép ngân hàng có thể xử lý TSBĐ mà không cần phải khởi kiện tại tòa án hoặc tại trung tâm trọng tài thương mại và không phải thông qua cơ quan thi hành án để xử lý TSBĐ. Còn với cơ chế xử lý TSBĐ bằng biện pháp tố tụng, ngân hàng phải khởi kiện đòi nợ vay tại tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc tại trọng tài thương mại1; sau khi có quyết định, bản án đã có hiệu lực thì phải thông qua cơ quan thi hành án để thực hiện kê biên, cưỡng chế và bán đấu giá TSBĐ. Bài viết sẽ đưa lại cái nhìn tổng quan về hai biện pháp xử lý TSBĐ này.

1. Ưu và nhược điểm của các cơ chế xử lý TSBĐ


2. Trường hợp áp dụng và các bước thực hiện

Vậy, khi nào thì ngân hàng có thể áp dụng biện pháp xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng và ngược lại?

Biện pháp xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng rõ ràng là tối ưu hơn rất nhiều so với biện pháp tố tụng. Đối với ngân hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung thì lại càng quan trọng do cần nhanh chóng thu hồi vốn sớm nhất có thể để đưa tiền vào kinh doanh. Nhưng việc áp dụng biện pháp xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng không thể tùy tiện, mà chỉ nên áp dụng trong các trường hợp sau:

(1) TSBĐ là nhà ở, công trình xây dựng, đất trống đang không có người chiếm hữu.

(2) Động sản là xe cơ giới, tàu thuyền, máy móc công nghiệp, hàng hóa trong kho, vật nuôi, cây trồng mà ngân hàng chiếm hữu được.

(3) Tất cả các TSBĐ mà bên bảo đảm và bên thứ ba (nếu có) đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nhưng hợp tác bàn giao cho ngân hàng trên thực tế để xử lý.

Lý do nằm ở chỗ sau khi bán đấu giá thành công TSBĐ, ngân hàng có thể bàn giao trên thực tế được TSBĐ cho người mua trúng đấu giá. Nếu bên bảo đảm hoặc bên thứ ba vẫn chiếm giữ không bàn giao TSBĐ thì ngân hàng và bên mua tài sản thông thường phải tiếp tục một vụ kiện riêng tại tòa để yêu cầu cưỡng chế giao tài sản trên thực tế (vì cơ quan thi hành án chỉ thực hiện việc cưỡng chế trên cơ sở bản án, quyết định của tòa án hoặc trung tâm trọng tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật).

Các trường hợp không thuộc phạm vi nêu trên thì nên và cần phải xử lý thông qua biện pháp tố tụng - khởi kiện tại tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc kiện tại trung tâm trọng tài thương mại để yêu cầu xử lý TSBĐ bằng biện pháp cưỡng chế.

Nếu ngân hàng xử lý TSBĐ bằng biện pháp phi tố tụng thì có thể thực hiện theo các bước cơ bản như sau:

Bước 1: Đại diện theo pháp luật của ngân hàng ký ủy quyền cho giám đốc chi nhánh hoặc nhân viên của ngân hàng toàn quyền trong việc xử lý TSBĐ (Điều 85 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền”; khoản 5 Điều 84 BLDS quy định: “Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền”).

Cần lưu ý, trong văn bản ủy quyền, nên có nội dung là bên nhận ủy quyền được quyền ủy quyền lại để thuận tiện trong việc giám đốc chi nhánh ngân hàng có thể ủy quyền lại cho nhân viên chi nhánh thực hiện công việc.

Bước 2: Phải đảm bảo đã có văn bản thông báo về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ đến hạn, đặc biệt việc nhận thế chấp quyền đòi nợ thì bắt buộc phải có thông báo cho bên có nghĩa vụ biết trước khi họ phải thực hiện nghĩa vụ (Điều 33 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 quy định thi hành BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị định 21)). Ngân hàng cần lưu giữ lại giấy tờ hợp pháp chứng minh bên có nghĩa vụ nợ đã nhận được thông báo này, trường hợp bên có nghĩa vụ từ chối nhận thì phải nhờ Văn phòng thừa phát lại lập vi bằng xác định thông báo này đã được ngân hàng gửi cho bên có nghĩa vụ).

Bước 3: Gửi thông báo xử lý TSBĐ cho bên bảo đảm, các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có) và người giữ TSBĐ (nếu có) về việc xử lý TSBĐ, trong thông báo này nên có nội dung đề nghị bàn giao TSBĐ cho ngân hàng để xử lý (Điều 51 Nghị định 21 về thông báo xử lý TSBĐ; Điều 301 BLDS về giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý).

Bước 4: Giao nhận TSBĐ hoặc thu giữ TSBĐ.

Trường hợp 1: Bên bảo đảm và người thứ ba đang chiếm hữu, sử dụng TSBĐ hợp tác giao TSBĐ thì: Ngân hàng thực hiện ký biên bản giao nhận TSBĐ và chiếm hữu TSBĐ trên thực tế (ngân hàng nên thuê công ty bảo vệ để trực tiếp quản lý TSBĐ kể từ ngày ngân hàng nhận bàn giao TSBĐ cho đến ngày bàn giao cho người mua TSBĐ).

Lưu ý: Trong biên bản giao nhận TSBĐ, cần ghi rõ hiện trạng thực tế của TSBĐ tại thời điểm các bên ký biên bản giao nhận TSBĐ.

Trường hợp 2: Bên bảo đảm và người thứ ba đang chiếm hữu TSBĐ nhưng không hợp tác giao TSBĐ, thì ngân hàng kiểm tra lại nội dung của hợp đồng thế chấp và phụ lục kèm theo, nếu trong hợp đồng thế chấp có điều khoản cho phép ngân hàng được thu giữ TSBĐ thì tiến hành bước thu giữ TSBĐ theo thủ tục như sau (trường hợp không có thỏa thuận thu giữ thì chuyển sang xử lý TSBĐ theo phương án tố tụng):

- Thông báo công khai thông tin về việc thu giữ TSBĐ (Như gửi thông báo cho bên bảo đảm, Ủy ban Nhân dân (UBND) và công an xã, phường, thị trấn nơi có TSBĐ, niêm yết thông báo tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn, thông báo trên trang điện tử của ngân hàng) (khoản 3 và 4, Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42)).

- Thực hiện thu giữ TSBĐ trên thực tế theo đúng thời gian và địa điểm đã thông báo. Lưu ý: (1) Trong văn bản, biên bản thu giữ TSBĐ phải có chữ ký của đại diện UBND xã, phường, thị trấn về đã chứng kiến việc thu giữ TSBĐ (khoản 5 Điều 7 Nghị quyết 42); (2) Có thể thuê Văn phòng thừa phát lại lập vi bằng để kiểm kê hiện trạng TSBĐ tại thời điểm thu giữ nhằm tránh sau này bên bảo đảm có thể cho rằng bên bảo đảm đã để các tài sản khác có giá trị trong TSBĐ và ngân hàng đã làm mất khi thu giữ TSBĐ.

Lưu ý: Chỉ những khoản nợ được hình thành và xác định là nợ xấu trước ngày 15/8/2017 và những khoản nợ được hình thành trước ngày 15/8/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết 42 có hiệu lực thì mới áp dụng Nghị quyết 42 để thu giữ TSBĐ.

Bước 5: Định giá lại TSBĐ và có chứng thư định giá TSBĐ của tổ chức có chức năng định giá (khoản 1 Điều 306 BLDS quy định: “Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận về giá TSBĐ hoặc định giá thông qua tổ chức định giá tài sản khi xử lý TSBĐ. Trường hợp không có thỏa thuận thì tài sản được định giá thông qua tổ chức định giá tài sản).

Bước 6: Bán đấu giá TSBĐ với giá khởi điểm là giá mà ngân hàng và bên bảo đảm đã thống nhất, trường hợp không thống nhất được thì lấy giá khởi điểm là giá trị định giá theo chứng thư định giá TSBĐ có thời gian không quá 6 tháng tính từ ngày của chứng thư định giá đến ngày bán đấu giá (điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá năm 2016 quy định: “Tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm: TSBĐ theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; Điều 303 BLDS quy định: Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp như bán đấu giá, bên nhận bảo đảm tự bán tài sản...; Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý TSBĐ thì tài sản được bán đấu giá...)”.

Bước 7: Nộp hồ sơ đấu giá thành TSBĐ cho cơ quan có thẩm quyền (văn phòng, chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai,...) để thực hiện đăng ký chuyển quyền sở hữu cho người trúng đấu giá TSBĐ.

Lưu ý:

- Trước khi bán đấu giá TSBĐ là quyền sử dụng đất thì nên kiểm tra xem TSBĐ có đang bị tranh chấp hay không (ví dụ: Bên thứ ba đang khởi kiện bên bảo đảm để tranh chấp quyền sở hữu quyền sử dụng đất).

- Đối với trường hợp TSBĐ là chứng khoán thì việc xử lý chứng khoán còn phải tuân theo quy định của Luật Chứng khoán năm 2019.

- Đối với trường hợp ngân hàng nhận chính TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ thì phải đảm bảo mục đích phục vụ trực tiếp cho hoạt động của ngân hàng (ví dụ: Nhận TSBĐ là nhà, đất để làm chi nhánh, văn phòng giao dịch của ngân hàng,...); đồng thời, còn phải tuân thủ quy định tại Điều 140 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về việc ngân hàng mua, đầu tư vào tài sản cố định như sau: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mua, đầu tư vào tài sản cố định phục vụ trực tiếp cho hoạt động không quá 50% vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ đối với tổ chức tín dụng hoặc không quá 50% vốn được cấp và quỹ dự trữ bổ sung vốn được cấp đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Ngoài ra, nếu ngân hàng nhận quyền sử dụng đất để thay thế nghĩa vụ trả nợ thì còn phải phù hợp quy định của Luật Đất đai về mục đích sử dụng (ví dụ: Ngân hàng không thể nhận TSBĐ là quyền sử dụng đất có mục đích là đất trồng lúa để cấn trừ nợ).

3. Xử lý TSBĐ theo phương án tố tụng

Có hai hình thức là tố tụng tại tòa án và tố tụng tại trung tâm trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào phương án tố tụng tại tòa án (phương án phổ biến hiện nay):

Bước 1: Nên có thông báo về việc nợ quá hạn và thông báo khởi kiện gửi cho bên vay và bên bảo đảm trước khi tiến hành

khởi kiện.

Bước 2: Nộp đơn khởi kiện và hồ sơ kèm theo (kèm theo giấy ủy quyền của ngân hàng ủy quyền cho tổ chức, cá nhân cụ thể thay mặt nộp đơn kiện và tham gia tố tụng, lưu ý trong giấy ủy quyền nên cho phép người nhận ủy quyền được phép ủy quyền lại).

Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí theo thông báo.

Bước 4: Tham gia tố tụng theo thủ tục rút gọn (khoản 1 Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn) hoặc thủ tục tố tụng thông thường.

Sau khi đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án hoặc trung tâm trọng tài thương mại thì thực hiện thủ tục thi hành án như sau:

Bước 1: Nộp đơn yêu cầu thi hành án kèm theo bản chính bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và hồ sơ liên quan khác đến cơ quan thi hành án có thẩm quyền (khoản 4 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về quyền nộp đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án).

Bước 2: Thi hành án tự thực hiện và hoàn thiện các thủ tục chung theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (như thẩm định tình trạng pháp lý và hiện trạng thực tế của TSBĐ; đo vẽ và kiểm duyệt nội nghiệp đối với tài sản là nhà đất; kê biên cưỡng chế tài sản; định giá tài sản;...) để đưa TSBĐ ra bán đấu giá công khai.

Lưu ý: Khi cơ quan thi hành án có thông báo cho các bên về việc thống nhất giá khởi điểm bán đấu giá TSBĐ thì các bên cần cố gắng hợp tác để đưa ra giá bán tốt nhất, vì các bên không thống nhất được thì cơ quan thi hành án sẽ chỉ định tổ chức định

giá TSBĐ.

Bước 3: Tổ chức bán đấu giá tiến hành phiên bán đấu giá công khai đối với TSBĐ. Thi hành án hỗ trợ thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu TSBĐ cho người mua và tổ chức cưỡng chế giao TSBĐ cho người trúng đấu giá trên thực tế.

Từ những phân tích ở trên có thể thấy mỗi cơ chế xử lý TSBĐ đều có các đặc thù riêng và ngân hàng cần chủ động lựa chọn cơ chế phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. Cho dù chọn cơ chế xử lý TSBĐ qua con đường phi tố tụng hay tố tụng thì ngân hàng cũng cần chuẩn bị thật kỹ các hồ sơ và thận trọng trong từng bước để có thể xử lý được TSBĐ một cách hiệu quả.

1 Trọng tài có thể có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại và tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại (Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).


Luật sư Trần Quang Vinh

Công ty Luật TNHH TINDONA Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng