Áp dụng mô hình COSO trong hoạt động kiểm soát, kiểm toán quỹ tín dụng nhân dân

Nghiên cứu - Trao đổi
Dưới tác động của kinh tế trong nước và quốc tế, cùng với sự biến đổi không ngừng của các hình thái kinh tế, loại hình Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) luôn có những thay đổi để tồn tại và phát triển th...
aa

Dưới tác động của kinh tế trong nước và quốc tế, cùng với sự biến đổi không ngừng của các hình thái kinh tế, loại hình Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) luôn có những thay đổi để tồn tại và phát triển theo hướng bền vững, đồng thời góp phần vào giải quyết nhu cầu bức thiết về vốn sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống của người dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì một số QTDND vẫn tồn tại những hạn chế, tiềm ẩn rủi ro và mất an toàn hoạt động. Chính vì vậy, một trong những giải pháp hữu hiệu để hạn chế các rủi ro là thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ QTDND hiệu quả. Việc nghiên cứu, áp dụng chuẩn mực quốc tế để hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các QTDND hiện nay sẽ góp phần giúp QTDND phát huy hiệu quả quản lý rủi ro, bảo đảm tính bền vững và ổn định trong quản trị và điều hành, hạn chế các rủi ro trọng yếu, ngăn chặn tình trạng mất an toàn trong hoạt động và thất thoát tài sản. Bài viết đề cập đến vấn đề hiệu quả hoạt động kiểm soát nội bộ ở các QTDND hiện nay, từ đó đề xuất nghiên cứu ứng dụng mô hình COSO nhằm nâng cao chất lượng và hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của các QTDND.

Theo quy định tại Điều 73 Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010: “TCTD là hợp tác xã là loại hình TCTD được tổ chức theo mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhằm mục đích chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống. TCTD là hợp tác xã gồm ngân hàng hợp tác xã, QTDND”. Do đó, có thể hiểu, QTDND là loại hình TCTD hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống. QTDND ra đời đã góp phần đa dạng hóa các loại hình TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn, tạo lập một mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, có sự liên kết chặt chẽ vì lợi ích của thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn... (Sơ đồ 1)


1. Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ QTDND

1.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát QTDND

Ban kiểm soát là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của QTDND theo pháp luật, Điều lệ, nghị quyết và quyết định của Đại hội thành viên, Hội đồng quản trị và theo các quy định nội bộ. Theo quy định hiện hành, nhiệm kỳ của Ban kiểm soát QTDND theo nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị. Trưởng Ban kiểm soát không giữ chức vụ quá 02 nhiệm kỳ liên tiếp.

Trưởng ban và thành viên Ban kiểm soát QTDND do Đại hội thành viên, Đại hội thành lập (đối với trường hợp mới thành lập QTDND) bầu trực tiếp, có không ít hơn 03 thành viên, trong đó phải có ít nhất 01 thành viên chuyên trách. Riêng đối với QTDND có tổng tài sản từ 08 tỷ đồng trở xuống thì việc bầu Ban kiểm soát hoặc chỉ bầu 01 kiểm soát viên chuyên trách do Đại hội thành viên quyết định. Điều kiện, tiêu chuẩn đối với Trưởng ban và thành viên Ban kiểm soát được quy định tại Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về Ngân hàng Hợp tác xã, QTDND và Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND. Thành viên Ban kiểm soát phải là thành viên QTDND hoặc đại diện hợp pháp của tổ chức trong trường hợp thành viên QTDND là tổ chức. Ngoài ra, thành viên Ban kiểm soát không được đồng thời là Kế toán trưởng, Thủ quỹ, nhân viên nghiệp vụ của QTDND và không phải là người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng, Thủ quỹ QTDND.

Nhìn chung, Ban kiểm soát thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu:

(i) Kiểm tra, giám sát hoạt động của QTDND theo quy định của pháp luật.

(ii) Kiểm tra việc thực hiện Điều lệ, nghị quyết, quyết định của Đại hội thành viên; nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị; giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) và thành viên QTDND.

(iii) Kiểm tra hoạt động tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ kế toán, phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ, sử dụng các quỹ, tài sản và các khoản hỗ trợ của Nhà nước; giám sát an toàn trong hoạt động của QTDND.

(iv) Thực hiện kiểm toán nội bộ trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của QTDND.

(v) Tiếp nhận, giải quyết theo thẩm quyền khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động của QTDND theo quy định của pháp luật và Điều lệ QTDND.

(vi) Triệu tập Đại hội thành viên bất thường trong một số trường hợp: (a) Khi Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) có hành vi vi phạm pháp luật, Điều lệ của QTDND và nghị quyết của Đại hội thành viên; khi Hội đồng quản trị không thực hiện hoặc thực hiện không có kết quả các biện pháp ngăn chặn theo yêu cầu của Ban kiểm soát; (b) Khi có ít nhất một phần ba tổng số thành viên Ban kiểm soát có yêu cầu triệu tập họp Đại hội thành viên gửi đến Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát mà Hội đồng quản trị không triệu tập Đại hội thành viên bất thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

(vii) Thông báo Hội đồng quản trị, báo cáo Đại hội thành viên và NHNN về kết quả kiểm soát; kiến nghị với Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) khắc phục những yếu kém, vi phạm trong hoạt động của QTDND.

1.2. Hoạt động kiểm toán nội bộ QTDND

Kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban kiểm soát QTDND và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát. Đối với QTDND chỉ có 01 kiểm soát viên chuyên trách mà không có Ban kiểm soát, việc kiểm toán nội bộ của QTDND do kiểm soát viên chuyên trách thực hiện. Phạm vi của kiểm toán nội bộ QTDND gồm kiểm toán tất cả các hoạt động, quy trình nghiệp vụ và các đơn vị, bộ phận của QTDND; kiểm toán đột xuất và tư vấn theo yêu cầu của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc. Nội dung chính của hoạt động kiểm toán nội bộ là đánh giá tính đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ là phương pháp kiểm toán “định hướng theo rủi ro”, ưu tiên tập trung nguồn lực để kiểm toán các bộ phận, quy trình được đánh giá có mức độ rủi ro cao.

Quy trình kiểm toán nội bộ tại QTDND bao gồm: (i) lập kế hoạch kiểm toán (kiểm toán hàng năm và từng cuộc kiểm toán); (ii) thực hiện kiểm toán; (iii) lập báo cáo kiểm toán nội bộ; (iv) kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị của kiểm toán nội bộ.

1.3. Thực trạng hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ QTDND trong giai đoạn hiện nay

Căn cứ các quy định về mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, Ban kiểm soát QTDND đã ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát, xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát theo tháng, quý, năm; phân công nhiệm vụ cho từng thành viên. Có thể nói, Ban kiểm soát được xem là một trong thành phần chủ chốt, đảm nhiệm những nhiệm vụ quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ để phát hiện kịp thời những tồn tại, sai sót trong công tác quản trị, điều hành, các mặt nghiệp vụ, kiến nghị xử lý, phòng ngừa rủi ro với mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn hệ thống QTDND trên địa bàn, thực hiện đúng chủ trương, tôn chỉ hoạt động QTDND. Định kỳ, Ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ đã tập trung xây dựng các kế hoạch nhằm giảm thiểu tối đa và kìm chế chặt chẽ về tỷ lệ rủi ro trong hoạt động bằng các hình thức thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng tín dụng, quán triệt nghiêm túc về đạo đức nghề nghiệp theo quy định của Ngành đối với toàn thể cán bộ, nhân viên, kiểm tra việc thực hiện phân loại nợ và chuyển nợ quá hạn theo quy định; thực hiện nghiêm túc các quy định về tỷ lệ an toàn, tỷ lệ thanh toán và giới hạn tín dụng; từ đó tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sổ sách, chứng từ; mục đích, tiến độ thực hiện dự án của thành viên vay vốn, bám sát các mục tiêu định hướng đề ra.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua, hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ QTDND còn tồn tại một số hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của QTDND, cụ thể:

- Kiểm toán nội bộ tại một số QTDND chủ yếu thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá, còn khá hạn chế về chức năng xác nhận và tư vấn, do đó, ảnh hưởng đến chất lượng công tác kiểm soát.

- Số ít QTDND vẫn vận hành hoạt động theo kiểu chủ nghĩa gia đình, khâu kiểm soát, giám sát nội bộ còn lỏng lẻo, chưa phát huy được vai trò thay mặt thành viên giám sát hoạt động của QTDND, vì vậy, hiệu quả giám sát an toàn trong hoạt động của hệ thống QTDND chưa cao.

- Hoạt động của Ban kiểm soát nhiều khi chưa phát huy hết vai trò kiểm tra, giám sát, cảnh báo tại chỗ nên không kịp thời phát hiện được sai phạm, yếu kém của QTDND. Tình trạng này cho thấy, khả năng tự giám sát và giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động của các QTDND còn thiếu hiệu quả, dẫn đến nguy cơ rủi ro trong hoạt động của hệ thống.

- Một số cán bộ làm công tác kiểm soát và kiểm toán nội bộ còn hạn chế về năng lực chuyên môn, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật chưa kịp thời. Việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ còn chưa được triển khai đồng bộ, dẫn đến hạn chế về năng lực quản lý và trình độ chuyên môn chưa thật đồng đều.

Để duy trì, phát triển và nâng cao hiệu quả của QTDND thì hoạt động của đơn vị phải được công khai, minh bạch. Điều đó đòi hỏi hoạt động của QTDND phải thường xuyên được kiểm tra, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và quy định của pháp luật hiện hành. Về phía cơ quan quản lý là NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, cần hỗ trợ nâng cao năng lực quản trị, điều hành của QTDND, đặc biệt là hệ thống kiểm toán nội bộ, đảm bảo người quản lý điều hành QTDND phải đáp ứng tiêu chuẩn về năng lực và trình độ theo quy định.

2. Khung lý thuyết hệ thống kiểm soát nội bộ theo mô hình COSO

Theo COSO (Committee of Sponsoring Organizations - Ủy ban các tổ chức tài trợ thuộc Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ về chống gian lận khi lập báo cáo tài chính), kiểm soát nội bộ là một quá trình bị chi phối bởi người quản lý, Hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu của đơn vị.

Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ giữa các đơn vị do phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt động, mục tiêu… của từng nơi, nhưng bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng phải bao gồm những bộ phận cơ bản. Theo chuẩn quốc tế COSO, hệ thống này cần có đủ 05 cấu phần, đó là: Môi trường kiểm soát; đánh giá rủi ro; hoạt động kiểm soát; thông tin và truyền thông; hoạt động giám sát.

2.1. Môi trường kiểm soát

Môi trường kiểm soát được coi là nền tảng cơ bản cho bốn nhân tố còn lại của hệ thống kiểm soát nội bộ. Môi trường kiểm soát gồm các nhân tố: (i) Tính chính trực và giá trị đạo đức của đội ngũ nhân viên: Sự phát triển của một đơn vị luôn gắn liền với đội ngũ nhân viên. Vì vậy, tính trung thực và giá trị đạo đức của nhân viên cao sẽ tạo môi trường thuận lợi để liên kết và phát huy sức mạnh tập thể giúp đơn vị hoàn thành kế hoạch, đạt được mục tiêu của mình; (ii) Triết lý và phong cách lãnh đạo của nhà quản lý thể hiện qua thái độ làm việc, năng lực lãnh đạo, việc làm thực tế của họ. Việc các nhân sự cấp quản lý tin tưởng vào tầm quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ tạo động lực cho đội ngũ nhân viên nắm bắt và thực thi các quy trình kiểm soát đã được thiết lập; (iii) Cơ cấu tổ chức của đơn vị đưa ra quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong đơn vị; trao quyền và trách nhiệm giải trình trong công việc; cơ chế báo cáo xuyên suốt trong nội bộ đơn vị; (iv) Chất lượng đội ngũ và chính sách nhân sự: Các chính sách này bao gồm các quy trình về tuyển dụng, đào tạo các nhân viên nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc; các quy trình về đánh giá hiệu quả công việc, công tác bổ nhiệm và chế độ đãi ngộ đối với nhân viên. Nhân tố con người là một phần quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ do những nhân viên đầy đủ năng lực, có tính trung thực sẽ góp phần tạo nên một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả.

2.2. Đánh giá rủi ro

Đánh giá rủi ro là quá trình nhận diện, phân tích và xử lý rủi ro trong hoạt động của đơn vị nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Do môi trường pháp lý, môi trường kinh tế và điều kiện hoạt động luôn thay đổi nên đánh giá rủi ro là một quá trình liên tục, có tính lặp lại và cần phân tích nhiều trường hợp khác nhau nhằm đảm bảo các thủ tục kiểm soát được đề ra có thể ứng phó với các rủi ro trong các điều kiện tương ứng, với ba bước sau:

(i) Nhận diện rủi ro: Sau khi xác định được mục tiêu, nhà quản lý cần xem xét tổng quan tất cả các rủi ro khiến đơn vị không đạt được mục tiêu đề ra, đánh giá sơ bộ rủi ro, từ đó, thu hẹp lại các rủi ro chính đối với các hoạt động quan trọng; (ii) Phân tích rủi ro: Gồm việc xác định tầm quan trọng của rủi ro (tác động đến việc đạt được mục tiêu của đơn vị) và xác định khả năng xảy ra của rủi ro đó (tần suất), kết quả của phân tích rủi ro cần xếp hạng được rủi ro để phục vụ cho quá trình ra quyết định của cấp quản lý; (iii) Xử lý rủi ro, gồm: Né tránh rủi ro, chuyển giao rủi ro, chấp nhận rủi ro, giảm thiểu tổn thất rủi ro mang lại. Đối với các rủi ro đã được xác định, nhiệm vụ quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ là duy trì và thực hiện thủ tục kiểm soát góp phần giảm thiểu tác động của rủi ro về mức có thể chấp nhận được.

2.3. Hoạt động kiểm soát

Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các quy định của nhà quản lý được thực hiện nhằm giúp kiểm soát các rủi ro mà đơn vị đang hay có thể gặp phải. Hoạt động kiểm soát diễn ra trong toàn đơn vị ở mọi cấp độ và mọi hoạt động. Khi đánh giá rủi ro, nhà quản lý sẽ xác định các hành động cần phải thực thi để đối phó với những rủi ro đe dọa đến việc đạt được các mục tiêu của tổ chức. Các hành động này đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng các thủ tục kiểm soát.

2.4. Thông tin và truyền thông

Về thông tin, mỗi bộ phận và cá nhân trong tổ chức đều phải có những thông tin cần thiết giúp thực hiện trách nhiệm của mình. Do đó, cần có cơ chế thu thập thông tin cần thiết từ bên ngoài và bên trong, chuyển đến người quản lý bằng các báo cáo thích hợp. Bảo đảm thông tin được cung cấp đúng chỗ, đủ chi tiết trình bày thích hợp và kịp thời. Đồng thời, rà soát và phát triển hệ thống thông tin trên cơ sở một chiến lược dài hạn.

Truyền thông là việc trao đổi và truyền đạt các thông tin cần thiết tới các bên có liên quan cả trong lẫn ngoài tổ chức. Do đó, đơn vị cần duy trì sự truyền thông hữu hiệu về trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi thành viên, đảm bảo truyền thông giữa các bộ phận, mở rộng truyền thông với bên ngoài. Thiết lập các kênh thông tin ghi nhận các hạn chế hay yếu kém trong hoạt động; đồng thời, xem xét và chấp nhận những kiến nghị của nhân viên trong việc cải tiến hoạt động của đơn vị.

2.5. Hoạt động giám sát

Là quá trình theo dõi và đánh giá chất lượng thực hiện việc kiểm soát nội bộ để đảm bảo hoạt động này được triển khai và điều chỉnh khi môi trường thay đổi; đồng thời, được cải thiện khi có khiếm khuyết. Hoạt động này được thực hiện thông qua việc đánh giá thường xuyên, đánh giá riêng lẻ hay kết hợp hai hình thức: (i) Giám sát thường xuyên kiểm soát nội bộ thiết lập cho những hoạt động thông thường và lặp lại của tổ chức; (ii) Giám sát định kỳ đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ, gồm phạm vi và tần suất giám sát định kỳ phụ thuộc vào mức độ rủi ro được kiểm soát và tính hiệu lực của các thủ tục giám sát thường xuyên.

3. Áp dụng mô hình COSO trong hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại QTDND

3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý

- Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, theo đó, các QTDND phải tiến hành thành lập bộ máy kiểm toán nội bộ theo quy định. Thông tư số 31/2012/TT-NHNN ngày 26/11/2012 của NHNN quy định về Ngân hàng Hợp tác xã đã quy định quyền hạn của Ngân hàng Hợp tác xã trong việc kiểm toán, hướng dẫn và hỗ trợ hoạt động kiểm toán nội bộ của các QTDND thành viên (thông qua việc chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm thiết lập, vận hành hệ thống kiểm toán nội bộ, thành viên…) để đảm bảo hệ thống QTDND hoạt động tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Trên thực tế, trong những năm gần đây, Ngân hàng Hợp tác xã đã chú trọng đến việc hỗ trợ hoạt động QTDND với vai trò là đầu mối tư vấn, cung cấp các chính sách hỗ trợ đảm bảo các hoạt động của QTDND an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ QTDND là một nghiệp vụ mới, do đó, Ngân hàng Hợp tác xã cần phát huy hơn nữa hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ nhằm phù hợp với định hướng phát triển của hệ thống QTDND.

- Thành lập tổ chức kiểm toán độc lập QTDND dưới hình thức công ty: Công ty này sẽ do Hiệp hội QTDND thành lập và quản lý, hoạt động với mục tiêu chủ yếu là hỗ trợ các QTDND mà không vì mục tiêu lợi nhuận. Khi đó, các QTDND sẽ được kiểm toán, sớm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời, được tư vấn, khuyến nghị nhằm đảm bảo cho các QTDND hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật, an toàn, hiệu quả mà chi phí ít tốn kém.

- Hoàn thiện các quy định nội bộ về quản trị, kiểm soát, điều hành, các quy định nội bộ về hoạt động tín dụng, kế toán, ngân quỹ, kiểm soát, kiểm toán nội bộ và đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để có biện pháp phòng ngừa, xử lý kịp thời.

3.2. Hoàn thiện môi trường kiểm soát

- Để nâng cao hiệu lực của hoạt động kiểm soát nội bộ tại QTDND, trước hết cần phải nâng cao nhận thức, quan điểm của nhà quản lý về mục tiêu, vai trò, và các yếu tố cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cần có sự thay đổi nhận thức từ sự “đối phó” với quy định của Nhà nước, của NHNN chuyển sang sự “chủ động” thiết lập để tận dụng khai thác tối đa những lợi ích của hàng rào phòng thủ này.

- Cần có sự đầu tư thích đáng mang tính “dài hơi” cho bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ: Như đã nêu ở trên, việc thiết lập bộ phận kiểm soát nội bộ không thể là sự đối phó hay mang tính hình thức mà đầu tiên phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của QTDND. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khai thác bộ phận này như thế nào cho hiệu quả thật không đơn giản. Do vậy, tiếp sau sự thay đổi về nhận thức, các nhà quản trị cần có một chiến lược từ việc khảo sát, thiết kế, triển khai tổ chức, đến vận hành bộ phận kiểm soát nội bộ.

- Xây dựng mô hình tổ chức của bộ phận kiểm soát nội bộ độc lập, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ, số lượng kiểm soát viên phải phù hợp với khối lượng công việc phải thực hiện.

- Xây dựng mạng lưới kiểm soát viên của các QTDND trên địa bàn với mục đích trao đổi, chia sẻ các kinh nghiệm thực tiễn, đảm bảo hiểu rõ bản chất hoạt động kiểm soát hướng tới mục tiêu an toàn hoạt động QTDND.

3.3. Hoàn thiện việc đánh giá rủi ro

- Đánh giá rủi ro là tiến trình có tính hệ thống để phân tích, đánh giá tổng hợp những xét đoán về rủi ro có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động QTDND, làm công cụ để thiết lập kế hoạch kiểm toán nội bộ hàng năm của QTDND. Khi lập kế hoạch kiểm toán cần phải xác định thứ tự ưu tiên kiểm toán cao hơn dựa vào mức độ rủi ro của từng nghiệp vụ, quy trình. Tiến trình đánh giá rủi ro hoạt động của QTDND cần phải kết hợp chặt chẽ các thông tin từ các nguồn khác nhau, bao gồm:

(i) Những cuộc họp giữa Ban kiểm soát với Hội đồng quản trị và Ban điều hành QTDND; (ii) Những nội dung thảo luận giữa lãnh đạo Ban kiểm soát với cán bộ, nhân viên kiểm toán nội bộ; (iii) Thảo luận với các kiểm toán viên độc lập; (iv) Xem xét việc thực hiện pháp luật và các quy định nội bộ của QTDND; (v) Phân tích các dữ liệu tài chính và hoạt động của QTDND, các định hướng của hệ thống QTDND, của ngành Ngân hàng và của nền kinh tế. Tần suất kiểm soát, kiểm toán nội bộ có thể dựa trên mức độ đánh giá rủi ro, cụ thể: ít nhất 01 lần trong 03 tháng đối với rủi ro cao; ít nhất 01 lần trong 06 tháng đối với rủi ro trung bình; ít nhất 01 lần trong 12 tháng và kiểm toán từng mặt nghiệp vụ đối với rủi ro thấp.

- Để đánh giá và phân tích rủi ro có thể xảy ra, QTDND cần xây dựng mục tiêu tổng thể trong hoạt động của QTDND và chi tiết cho từng bộ phận hay từng hoạt động có liên quan và phổ biến rộng rãi đến từng nhân viên làm căn cứ để thực hiện công việc. Khi các mục tiêu được đề ra, nhà quản lý mới có thể nhận dạng đầy đủ và chính xác rủi ro, phân tích rủi ro và tìm ra các biện pháp nhằm ngăn ngừa hay giảm thiểu rủi ro QTDND ở mức có thể chấp nhận được. Càng nhận diện sớm những cơ hội/thách thức thì khả năng đưa ra các hành động ứng phó càng tốt và tránh những tình huống bất ngờ có thể xảy ra.

- Cơ quan chức năng cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động phân tích, đánh giá rủi ro. Từ đó, xây dựng khung quản trị rủi ro cho hệ thống QTDND, từ việc nhận diện, đánh giá, ứng phó và quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nhận diện và đánh giá rủi ro để kịp thời ngăn ngừa và phát hiện rủi ro.

- Nâng cao nhận thức của nhà quản lý trong nhận diện, đánh giá và phân tích rủi ro. Lĩnh vực ngân hàng nói chung và hoạt động QTDND được đánh giá là tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, chịu tác động lớn bởi sự biến động của các yếu tố kinh tế vĩ mô nằm ngoài khả năng kiểm soát của NHNN. Hầu hết lãnh đạo tại các QTDND hiện nay đều ý thức rất rõ vấn đề này để không chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà bất chấp các rủi ro. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, tất yếu bộ phận quản lý QTDND phải có nhận thức và quan điểm đúng đắn với nhận diện, đánh giá và phân tích rủi ro.

3.4. Giải pháp hoàn thiện kiểm soát nội bộ

- Những tiêu chí đánh giá độ tin cậy của hệ thống kiểm soát một đơn vị bao gồm: (i) Thiết kế, xây dựng và cập nhật chính sách, thủ tục; (ii) Mức độ hoàn chỉnh của cơ cấu tổ chức; (iii) Mức độ tiếp thu, khắc phục yếu kém của Ban lãnh đạo; (iv) Phân công nhiệm vụ của đơn vị; (v) Nhận thức và đề ra giải pháp quản lý của Ban lãnh đạo về những nhân tố quan trọng có thể dẫn đến rủi ro; (vi) Trình độ, kiến thức, năng lực thực hiện nhiệm vụ, nhận thức và thực hiện các thủ tục kiểm soát của nhân viên; (vii) Thực hiện kế hoạch chỉnh sửa sai sót, vi phạm, thực hiện kiến nghị của thanh tra, kiểm tra, kiểm toán;

(viii) Chương trình và chất lượng đào tạo nhân viên; (ix) Hiệu quả quản lý đối với những thay đổi về hoạt động; (x) Chính sách luân chuyển cán bộ, quản lý cán bộ.

- QTDND cần thường xuyên rà soát, xây dựng các sơ đồ, quy trình nghiệp vụ nhằm chuẩn hóa các quy trình hoạt động đối với từng nghiệp vụ, tạo cẩm nang hướng dẫn chi tiết cho từng nhân viên trong QTDND.

- Công việc và trách nhiệm cần được phân chia cho nhiều người trong một bộ phận hay cho nhiều bộ phận trong đơn vị để không một cá nhân hay một bộ phận nào được thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, từ đó tránh được gian lận, sai sót. Trong phân công, phân nhiệm cần tránh cả hai xu hướng quá tập trung hoặc quá phân tán. Quá tập trung dễ dẫn đến lạm quyền, quá phân tán dễ dẫn đến những quyết định trong quản lý không đáp ứng kịp thời hoặc không chuẩn xác, từ đó, các cấp có thẩm quyền không nắm được thông tin.

- Cần đổi mới tư duy và thay đổi lề lối làm việc theo kiểu “gia đình”, phải có sự độc lập giữa Hội đồng quản trị và Ban điều hành; Hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm giám sát sự phát triển và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ một cách sát sao và hiệu quả.

- Cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hai khía cạnh chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp để có thể đáp ứng yêu cầu công việc trong giai đoạn mới. Để thực hiện điều này, QTDND cần tăng cường công tác giám sát cán bộ trong khâu tuyển dụng, sau tuyển dụng và định kỳ.

3.5. Giải pháp hoàn thiện hoạt động thông tin và truyền thông

- Hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin, phát triển hệ thống quản lý nội bộ phù hợp với quy mô và mức độ của hoạt động QTDND. Có các biện pháp phân tích thông tin (kế hoạch, dự toán, định mức, mức độ…) để đưa ra được các dự báo, từ đó nhận diện và cảnh báo các rủi ro trong tương lai. Đặc biệt, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án “Đẩy mạnh hệ thống QTDND - STEP” với mục tiêu hỗ trợ về đào tạo kỹ năng vận hành công nghệ thông tin, giúp quản trị công nghệ thông tin cũng như đảm bảo an toàn về dữ liệu của QTDND.

- Xây dựng hệ thống dữ liệu nội bộ tập trung nhằm có sự thống nhất trong hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ từ trên xuống dưới, đồng thời cung cấp kênh thông tin kịp thời phản hồi từ các bộ phận kiểm soát lên Ngân hàng Hợp tác xã nhằm tư vấn cho quá trình xây dựng kế hoạch kiểm tra tại QTDND.

- Tăng cường việc phổ biến các văn bản, quy định liên quan đến từng bộ phận, nhằm đảm bảo tất cả các công chức, viên chức ở mọi cấp đều hiểu và nắm bắt được các thông tin cần thiết giúp thực hiện trách nhiệm kiểm soát nội bộ tại QTDND.

- Có các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động truyền thông hiệu quả, tích cực nhận ý kiến phản hồi từ các cá nhân, đơn vị bên ngoài; thúc đẩy việc lắng nghe thông tin phản hồi từ nhân viên, xây dựng kênh thông tin để nhân viên chia sẻ, đóng góp ý kiến, báo cáo về những hành vi sai phạm; tổ chức một bộ phận có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và chuyển cấp có thẩm quyền để xử lý.

- Mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường sự hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ các dự án hỗ trợ kỹ thuật và hợp tác đào tạo của các tổ chức, cá nhân về nghiệp vụ QTDND.

3.6. Giải pháp hoàn thiện hoạt động giám sát

- Cần tổ chức lại bộ máy kiểm toán nội bộ, yêu cầu về tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kiểm toán viên nội bộ, trong đó chú trọng cả khâu đào tạo sau tuyển dụng, đào tạo cụ thể về từng nghiệp vụ hoạt động của QTDND; thực hiện luân chuyển kiểm toán viên đến các vị trí nghiệp vụ để cùng xây dựng hệ thống nhận diện và đánh giá rủi ro. Ứng dụng việc kiểm toán nội bộ trên cơ sở rủi ro để xây dựng quy trình kiểm toán, lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán trên cơ sở rủi ro, đồng thời chú trọng đến kiểm toán hiệu quả, hiệu suất hoạt động, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ; thực hiện kiểm toán theo chuyên đề, theo quy trình nghiệp vụ, hướng tới chất lượng kiểm toán thay vì tần suất thực hiện kiểm toán.

- Cần tăng cường vai trò giám sát nội bộ của từng thành viên trong QTDND đúng theo nguyên tắc hoạt động mô hình là hợp tác xã, liên kết, hỗ trợ thành viên trên địa bàn cùng phát triển. Hoạt động của QTDND phải gắn liền với quan hệ làng xóm, sự ràng buộc tại địa bàn, nghĩa vụ của thành viên trong QTDND với nhau, thể hiện được tính đặc thù của các QTDND là phục vụ thành viên, xã viên trên cùng một địa bàn sinh sống.

Tài liệu tham khảo:

1. Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về Ngân hàng Hợp tác xã, QTDND và Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND.

2. COSO (2013), Guidance on COSO Website.

3. Ngô Đức Duy (2018), Hệ thống QTDND với phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế.

4. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2017), Phát triển bền vững hệ thống QTDND ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế.

5. Duflos, E. (2013), Sustainable Interest Rate Setting and Risk Management in Microfinance Institutions, FC-TYM-VMFWG ngày 16/5/2013.



ThS. Trương Hồng Quang

Vụ Kiểm toán nội bộ, NHNN


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng