Web 3.0 thế hệ Internet tiếp theo của cuộc cách mạng World Wide Web

Công nghệ & ngân hàng số
Với mong muốn dữ liệu được kết nối với nhau theo cách phi tập trung, kết hợp sức mạnh của trí tuệ nhân tạo, hiểu đơn giản, con người trong tương lai không muốn phải tự mở máy tính để truy cập Internet nữa, thay vào đó, họ muốn Internet đủ thông minh để kết nối vạn vật, đẩy sức tương tác giữa những người dùng lên mức tối đa...
aa

Với mong muốn dữ liệu được kết nối với nhau theo cách phi tập trung, kết hợp sức mạnh của trí tuệ nhân tạo, hiểu đơn giản, con người trong tương lai không muốn phải tự mở máy tính để truy cập Internet nữa, thay vào đó, họ muốn Internet đủ thông minh để kết nối vạn vật, đẩy sức tương tác giữa những người dùng lên mức tối đa. Hãy tưởng tượng một loại Internet mới không chỉ có thể diễn giải được chính xác những gì người dùng nhập vào, mà còn thực sự hiểu được mọi thứ người dùng truyền tải, cho dù thông qua văn bản, giọng nói hay các phương tiện khác, một nơi mà tất cả nội dung người dùng sử dụng đều phù hợp với người dùng hơn bao giờ hết. Chúng ta đang ở thời điểm quan trọng của một giai đoạn mới trong quá trình phát triển của web, đó chính là Web 3.0.


Có thể cho rằng, một vài ứng dụng Web 3.0 giai đoạn đầu đã tồn tại cho đến ngày nay, nhưng cho đến khi Internet mới bắt đầu được nhúng hoàn toàn vào cơ sở hạ tầng web thì chúng ta không thể nào đoán hết được tiềm năng thực sự của chúng. Vậy Web 3.0 là gì, nó sẽ như thế nào và nó sẽ thay đổi cuộc sống của chúng ta ra sao?

1. Định nghĩa

Web 3.0 là thế hệ thứ ba sắp tới của Internet, nơi các trang web và ứng dụng sẽ có thể xử lý thông tin theo cách thông minh giống như con người thông qua các công nghệ như: Máy học (Machine Learning - ML), Dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ sổ cái phi tập trung (DLT)... Ban đầu, Web 3.0 được nhà phát minh World Wide Web, Tim Berners-Lee, gọi là Semantic Web và nó nhằm mục đích trở thành một Internet tự chủ, thông minh, và cởi mở hơn.

Web 3.0 có thể được mở rộng như sau: Dữ liệu sẽ được kết nối với nhau theo cách phi tập trung. Đây sẽ là một bước tiến vượt bậc so với thế hệ Internet hiện tại của chúng ta (Web 2.0), nơi dữ liệu chủ yếu được lưu trữ trong các kho lưu trữ tập trung.

Hơn nữa, người dùng và máy móc sẽ có thể tương tác với dữ liệu. Nhưng để làm được điều này, các chương trình cần hiểu được thông tin cả về mặt khái niệm lẫn ngữ cảnh. Với suy nghĩ này, Web 3.0 có hai nền tảng là Semantic Web (mạng ngữ nghĩa) và trí tuệ nhân tạo (AI).

2. Mối liên hệ Web 3.0, tiền điện tử và Blockchain

Vì Web 3.0 hoạt động thông qua các giao thức phi tập trung, các khối sáng lập của Blockchain và công nghệ tiền điện tử nên chúng ta có thể mong đợi sự hội tụ và mối quan hệ cộng sinh mạnh mẽ giữa ba công nghệ này và các lĩnh vực khác. Chúng có thể tương tác, tích hợp liền mạch, tự động thông qua các hợp đồng thông minh và được sử dụng để cung cấp năng lượng cho bất kỳ thứ gì từ các giao dịch vi mô ở bất kỳ đâu, lưu trữ và chia sẻ tệp dữ liệu Peer-to-Peer (P2P) chống kiểm duyệt với các ứng dụng như Filecoin1 để thay đổi hoàn toàn mọi hành vi và hoạt động kinh doanh.

Mạng lưới dữ liệu phi tập trung sẽ cho phép từng cá nhân tự tay sở hữu dữ liệu của mình, toàn quyền trao đổi, buôn bán chúng mà không phải dựa vào một bên thứ ba. Thông thường, hành động tin tưởng bên thứ ba sẽ đi kèm với việc người dùng trao đi những dữ liệu riêng tư, bí mật vốn được giấu kín ngoài đời thực. Một mạng lưới dữ liệu phi tập trung sẽ cho các cá nhân mang dữ liệu của mình tham gia vào “nền kinh tế dữ liệu” đã và đang ngày một hiện rõ.

AI và các thuật toán ML đã đủ mạnh để tạo ra những dự đoán, những hành động hữu hiệu trong thế giới thực (đơn giản nhất là dự báo thời tiết đã ngày một chính xác hơn trước nhờ sức xử lý của siêu máy tính và các hệ thống tổng hợp dữ liệu tương tự). Khi đặt khả năng xử lý mạnh mẽ này lên một nền móng dữ liệu phi tập trung, siêu máy tính sẽ vươn tới được một lượng dữ liệu lớn ngoài sức tưởng tượng. Ứng dụng của các thuật toán dự đoán, loại trừ sẽ còn đơn giản là quảng cáo đúng mục tiêu (targeted marketing), mà sẽ góp công đẩy mạnh việc nghiên cứu vật liệu mới, thiết kế thuốc với thành phần mới, hay lập ra mô hình dự báo khí hậu, thời tiết chính xác hơn.

Web 3.0 mở ra một tương lai mà tại đó, người dùng cùng siêu máy tính đồng thời tương tác với dữ liệu thông qua một mạng ngang hàng P2P mà không cần tới sự can thiệp của bên thứ ba. Đây sẽ là nền tảng vững chắc đặt yếu tố cá nhân làm trọng tâm, có tính bảo mật cao và sẽ là đòn bẩy cho một nền tảng mạng Internet mới, cởi mở, an toàn và phi tập trung.

3. Sự phát triển của công nghệ Web 3.0

Web 3.0 được sinh ra từ sự phát triển tự nhiên của các công cụ web thế hệ cũ kết hợp với các công nghệ tiên tiến như AI và Blockchain, cũng như sự kết nối giữa người dùng và việc sử dụng Internet ngày càng tăng.

Thế hệ Web 1.0 (1989 - 2005)

Web 1.0 là thế hệ Internet đầu tiên và đáng tin cậy nhất trong những năm 1990 mặc dù chỉ cung cấp quyền truy cập vào các thông tin hạn chế với ít hoặc không có sự tương tác của người dùng. Trước đây, việc tạo ra các trang người dùng hoặc thậm chí là bình luận trên các bài viết là điều hiếm gặp. Web 1.0 không có các thuật toán để sàng lọc các trang Internet, điều này khiến người dùng vô cùng khó khăn trong việc tìm kiếm các thông tin liên quan. Nói một cách đơn giản, nó giống như đường cao tốc một chiều với lối đi nhỏ hẹp, nơi việc tạo nội dung được thực hiện bởi một số ít người được chọn và thông tin chủ yếu đến từ các thư mục.

Thế hệ Web 2.0 (2005 - nay)

Mạng xã hội, hay Web 2.0, đã làm cho Internet trở nên có tính tương tác hơn rất nhiều nhờ vào những tiến bộ trong công nghệ web như Javascript, HTML5, CSS3... cho phép các công ty khởi nghiệp xây dựng nền tảng web tương tác như YouTube, Facebook, Wikipedia và nhiều nền tảng khác nữa. Điều này đã mở đường phát triển cho cả mạng xã hội và việc sản xuất nội dung do người dùng tạo ra, vì nó có thể phân phối và chia sẻ dữ liệu giữa các nền tảng và ứng dụng khác nhau.

Thế hệ Web 3.0

Web 3.0 là giai đoạn tiếp theo của quá trình phát triển web sẽ làm cho Internet trở nên thông minh hơn hoặc xử lý thông tin với trí thông minh gần giống con người thông qua sức mạnh của các hệ thống AI có thể chạy các chương trình thông minh để hỗ trợ người dùng.

Tim Berners-Lee đã nói rằng Semantic Web có nghĩa là tương tác “một cách tự động” với các hệ thống, con người và thiết bị gia đình. Như vậy, quá trình tạo nội dung và ra quyết định sẽ có sự tham gia của cả con người và máy móc. Điều này sẽ cho phép tạo ra và phân phối nội dung phù hợp nhất một cách thông minh đến thẳng mọi người dùng Internet.

4. Các tính năng chính của Web 3.0

Để hiểu một cách sâu sắc về giai đoạn tiếp theo của Internet, cần xem xét bốn tính năng chính của Web 3.0: Ubiquity; Semantic Web; AI; Spatial Web và đồ họa 3D.

Ubiquity (tính phổ biến): Có nghĩa là nó sẽ hoặc có khả năng ở khắp mọi nơi, đặc biệt là cùng một lúc. Nói cách khác, nó có mặt khắp nơi. Theo nghĩa đó, Web 2.0 đã có tính phổ biến, chẳng hạn như người dùng Facebook có thể chụp ảnh và chia sẻ ảnh ngay lập tức. Điều này có tính phổ biến vì nó có sẵn cho bất kỳ ai dù họ ở đâu, miễn là họ có quyền truy cập nền tảng truyền thông xã hội.

Web 3.0 chỉ đơn giản là đưa điều này tiến thêm một bước nữa bằng cách làm cho mọi người có thể truy cập Internet ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào. Đến một lúc nào đó, các thiết bị kết nối Internet sẽ không còn tập trung vào máy tính và điện thoại thông minh như với Web 2.0 nữa vì công nghệ IoT (Internet of Things - Internet vạn vật) sẽ mang đến vô số loại thiết bị thông minh mới.

Semantic (ngữ nghĩa): Theo Berners-Lee, Semantic Web (mạng ngữ nghĩa) cho phép máy tính phân tích vô số dữ liệu từ Web, bao gồm nội dung, giao dịch và liên kết giữa con người với nhau. Cú pháp của chúng có thể khác nhau, nhưng ngữ nghĩa của chúng khá giống nhau, vì ngữ nghĩa chỉ liên quan đến ý nghĩa hoặc cảm xúc của nội dung.

Việc áp dụng ngữ nghĩa trong Web sẽ cho phép máy móc giải mã ý nghĩa và cảm xúc bằng cách phân tích dữ liệu. Do đó, người dùng Internet sẽ có trải nghiệm tốt hơn nhờ kết nối dữ liệu nâng cao.

AI: Là trí thông minh do máy móc thể hiện. Vì Web 3.0 có thể đọc và giải mã ý nghĩa và cảm xúc được truyền tải bởi một tập hợp dữ liệu, nên nó tạo ra những máy móc thông minh. Mặc dù Web 2.0 có các khả năng tương tự, nhưng nó vẫn chủ yếu dựa vào con người. Điều này tạo ra chỗ đứng cho các hành vi sai trái như đánh giá sản phẩm thiên vị, xếp hạng gian lận...

Ví dụ: Các nền tảng đánh giá trực tuyến như Trustpilot cung cấp cách thức để người tiêu dùng đánh giá mọi sản phẩm hoặc dịch vụ. Không may là, một công ty có thể tập hợp một nhóm người và trả tiền cho họ để tạo ra các đánh giá tích cực cho các sản phẩm không đáng có của công ty. Vì vậy, Internet cần có AI để học cách phân biệt hàng thật và hàng giả nhằm cung cấp dữ liệu đáng tin cậy.

Gần đây, hệ thống AI của Google đã xóa khoảng 100.000 đánh giá tiêu cực về ứng dụng Robinhood khỏi cửa hàng Play sau sự cố giao dịch Gamespot khi hệ thống này phát hiện ra các nỗ lực thao túng xếp hạng nhằm mục đích phản đối ứng dụng một cách giả tạo. Điều này sẽ sớm hoàn toàn phù hợp với Web 3.0, cho phép các blog và các nền tảng trực tuyến khác có thể sàng lọc dữ liệu và điều chỉnh chúng theo ý thích của từng người dùng. Khi AI càng phát triển, nó sẽ cung cấp cho người dùng những dữ liệu được lọc tốt nhất và không thiên vị.

Spatial Web (Web không gian) và đồ họa 3D: Một số nhà tương lai học còn gọi Web 3.0 là Web không gian vì nó nhằm mục đích xóa mờ ranh giới giữa vật lý và kỹ thuật số bằng cách cách mạng hóa công nghệ đồ họa, đưa vào thế giới ảo ba chiều (3D) một sự tập trung rõ ràng.

Không giống như các đối tác 2D, đồ họa 3D mang đến một cấp độ hoàn hảo mới không chỉ cho các ứng dụng trò chơi tương lai như Decentraland, mà còn cho các lĩnh vực khác như bất động sản, y tế, thương mại điện tử và nhiều lĩnh vực khác.

5. Những lợi ích và ứng dụng của Web 3.0

- Xã hội hoạt động hiệu quả hơn khi loại bỏ bên thứ ba, khi giá trị của dữ liệu, của hàng hóa nằm tại tay người dùng và người cung ứng.

- Người dùng, các tổ chức và máy móc chia sẻ thông tin với mức bảo mật cao hơn. Không còn rủi ro tới từ bên thứ ba kiểm soát nền tảng lớn nữa. Khi những khoản đầu tư của từng cá nhân, từng tổ chức không còn bị phụ thuộc vào nền tảng chung, vì vậy hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra.

- Người dùng sẽ sở hữu và kiểm soát hoàn toàn tài sản số của mình, đảm bảo quyền sở hữu thông qua các công nghệ như Blockchain.

- Thông qua cách phân tán dữ liệu, làm chủ dữ liệu linh hoạt, những người tham gia sử dụng nền tảng mới có thể chung tay giải quyết những vấn đề khó giải quyết trước đây, như cùng giải quyết nạn thiếu lương thực, nước uống hay những vấn đề môi trường, khí hậu.

Tác dụng của Web 3.0 không chỉ dừng lại ở việc hậu thuẫn tiền mã hóa. Với những tương tác nay đã có thể mang tính cá nhân sâu hơn, quy mô toàn cầu được đẩy lên cao hơn, Web 3.0 sẽ sử dụng thuật toán ML tiên tiến để kết nối dữ liệu giữa người, các tổ chức và hệ thống máy móc. Yếu tố cá nhân sẽ được đặt lên cao hơn, khi người dùng không còn bị chi phối bởi những tổ chức quyền lực. Tài sản, lợi ích sẽ nằm lại tay từng cá nhân, do cá nhân định đoạt.

Một yêu cầu phổ biến đối với ứng dụng Web 3.0 là khả năng xử lý khối lượng thông tin lớn và biến chúng thành kiến thức thực tế và các thực thi hữu ích cho người dùng. Như đã nói ở trên, những ứng dụng này vẫn đang ở giai đoạn đầu, có nghĩa là chúng còn rất nhiều thứ để cải thiện và khác xa so với cách các ứng dụng Web 3.0 có thể hoạt động.

Một số công ty đang xây dựng hoặc đã có các sản phẩm mà họ đang chuyển đổi thành các ứng dụng Web 3.0, đó là Amazon, Apple và Google. Cụ thể các ứng dụng đã sử dụng công nghệ Web 3.0 là Siri và Wolfram Alpha.

Siri: Trong những năm qua, trợ lý AI điều khiển bằng giọng nói của Apple đang ngày càng thông minh hơn và đã mở rộng khả năng của mình kể từ lần đầu tiên xuất hiện trên mẫu iPhone 4S. Siri sử dụng tính năng nhận dạng giọng nói, cùng với AI, để có thể thực hiện các lệnh phức tạp và được cá nhân hóa.

Ngày nay, Siri và các trợ lý AI khác như Alexa của Amazon và Bixby của Samsung có thể hiểu các yêu cầu như “cửa hàng bánh mì kẹp thịt gần nhất ở đâu” hay “đặt lịch hẹn với Sasha Marshall vào 8 giờ sáng mai” và ngay lập tức đưa ra thông tin hoặc hành động phù hợp.

Wolfram Alpha: Là một “công cụ kiến thức tính toán” trả lời trực tiếp các câu hỏi của người dùng bằng cách tính toán, trái ngược với việc cung cấp cho người dùng danh sách các trang web như các công cụ tìm kiếm. Nếu người dùng muốn so sánh với thực tế, hãy tìm kiếm “Anh và Brazil” trên cả Wolfram Alpha và Google và xem sự khác biệt.

Google cung cấp kết quả của World Cup ngay cả khi người dùng không bao gồm “bóng đá” làm từ khóa, vì đây là tìm kiếm phổ biến nhất. Mặt khác, Alpha sẽ cung cấp cho người dùng một so sánh chi tiết về hai quốc gia trên, giống như người dùng đã hỏi. Đó là sự khác biệt chính giữa Web 2.0 và 3.0.

6. Kết luận

Internet của thế hệ Web 3.0 sẽ cung cấp trải nghiệm duyệt Web cá nhân và tùy chỉnh hơn, trợ lý tìm kiếm thông minh hơn và giống con người hơn, các lợi ích phi tập trung khác hy vọng sẽ giúp thiết lập một Web công bằng hơn. Có thể đạt được điều này bằng cách trao quyền cho mỗi người dùng cá nhân trở thành người có chủ quyền đối với dữ liệu của họ và tạo ra trải nghiệm tổng thể phong phú hơn nhờ vô số cải tiến sẽ xuất hiện khi nó có sẵn.

Khi Web 3.0 xuất hiện, hãy thử xem xét cách các thiết bị thông minh đã thay đổi mô hình hành vi của chúng ta như thế nào - Internet sẽ trở nên tích hợp hơn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta theo cấp số nhân.

Mạng Internet sẽ không còn là những màn hình đầy chữ và hình ảnh, mà sẽ là cơ chế lan tỏa, là không gian mà qua đó các tương tác được thực hiện. Chúng ta sẽ thấy gần như tất cả các máy móc ngoại tuyến thông thường ngày nay, từ các thiết bị gia dụng như lò nướng, máy hút bụi và tủ lạnh cho đến tất cả các loại phương tiện giao thông hay bất cứ thiết bị điện tử nào... đều trở thành một phần của nền kinh tế IoT, có thể tương tác với các máy chủ tự trị và các ứng dụng phi tập trung (DApp), thúc đẩy các lĩnh vực kỹ thuật số mới như Blockchain và tài sản kỹ thuật số để cung cấp năng lượng cho vô số ứng dụng của công nghệ Web 3.0 trong thời gian tới.

1 Filecoin là một giải pháp Blockchain cung cấp giải pháp lưu trữ dữ liệu phi tập trung. Filecoin là một mạng ngang hàng lưu trữ các tệp trên Internet, với các ưu đãi kinh tế tích hợp để đảm bảo các tệp được lưu trữ một cách đáng tin cậy theo thời gian.


ThS. Trần Quốc Việt

Đại học Tài nguyên và Môi trường


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Với quyết tâm từ các cấp lãnh đạo, nỗ lực của ngành Ngân hàng và ý thức cảnh giác của mỗi người dân, chúng ta hoàn toàn có thể giảm thiểu mối đe dọa từ deepfake, góp phần bảo vệ an ninh tài chính quốc gia trong kỷ nguyên số hóa.
Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Ngày 29/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thời báo Ngân hàng đã phối hợp với Vụ Thanh toán - NHNN tổ chức sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” với chủ đề “Hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới”. Tham dự sự kiện có đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06.
Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Bài viết phân tích sự chuyển dịch của hệ thống chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh vai trò của hành vi khách hàng, hiệu quả chi phí và công nghệ. Mô hình hybrid được xem là giải pháp tối ưu, kết hợp giữa kênh số và chi nhánh truyền thống. Nghiên cứu đề xuất tái cấu trúc mạng lưới, nâng cao năng lực nhân sự và ứng dụng dữ liệu lớn để phục vụ đa dạng nhu cầu khách hàng.
Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc