Việt Nam trước tác động của suy giảm vốn ODA

Nghiên cứu - Trao đổi
Từ năm 2010, Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế, song, cũng đặt ra bài toán khi vốn ODA - nguồn vốn cung cấp bởi...
aa

Từ năm 2010, Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế, song, cũng đặt ra bài toán khi vốn ODA - nguồn vốn cung cấp bởi các tổ chức chính phủ, phi chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các quốc gia đang phát triển - không còn dồi dào. Với các ưu điểm là lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại, thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài, phần viện trợ không hoàn lại chiếm tối thiểu 25%, Việt Nam vẫn luôn coi ODA là nguồn vốn quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực. Việc cắt giảm ODA, chắc chắn, sẽ tạo nên những áp lực không nhỏ cho ngân sách nhà nước và công cuộc phát triển, nhưng cũng không phải là không mang đến những mảng màu tích cực.

Khó khăn

Tại các nước kém và đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn ODA tiếp nhận chủ yếu được dùng để đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình trọng yếu, như các tuyến đường giao thông, các công trình năng lượng và công nghiệp, bệnh viện, trường học,… Tình trạng các nhà tài trợ đã, đang giảm dần và sẽ cắt hẳn viện trợ ảnh hưởng tới tiến độ thi công của các công trình đang xây dựng, hoặc làm hạn chế nguồn vốn đầu tư phát triển của nước tiếp nhận. Tốc độ phát triển và khả năng cạnh tranh do đó cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt trong trường hợp của Việt Nam, dù đã thoát nghèo, song, quá trình phát triển vẫn chưa thực sự ổn định và vững chắc, đất nước vẫn đang trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá, đời sống người dân chỉ vừa được cải thiện, cơ sở hạ tầng còn thô sơ, vai trò của ODA, do đó, là rất lớn trong việc cung cấp tiềm lực cho nền kinh tế. Ước tính, nguồn vốn dành cho đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm tới 40% tổng vốn ODA. Xoay xở thế nào để tiếp tục đầu tư phát triển khi nguồn viện trợ này bị cắt giảm sẽ là một thách thức không nhỏ cho các nhà quản lý Việt Nam.

Để các DNTN được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi ODA một cách bình đẳng sẽ giúp tăng tính minh bạch, giảm sự cấu kết lợi ích nhóm, tham nhũng, khuyến khích chuyển giao công nghệ và phát triển khu vực kinh tế tư nhân

Với thực tế các nguồn viện trợ đang dần trở nên kém ưu đãi, lãi suất tăng lên, kỳ hạn vay giảm xuống, các điều kiện ràng buộc ngày càng nhiều, Việt Nam hiện đang và sẽ phải đối mặt với áp lực tăng cao của việc trả nợ. Theo thông tin từ Bộ Tài chính, bình quân Ngân sách Nhà nước (NSNN) trả nợ ODA khoảng 1 tỷ USD mỗi năm(1), thời điểm phải trả nhiều nhất sẽ vào năm 2022-2025. Đây là một thách thức không nhỏ trong bối cảnh ngành tài chính công của Việt Nam còn khá yếu, bao gồm nợ công tương đối cao và liên tục tăng, song hành cùng khu vực ngân hàng dễ bị tổn thương. Cụ thể, tình trạng thâm hụt ngân sách hiện đã kéo dài qua nhiều năm. Năm 2017, bội chi NSNN khoảng 174,3 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 3,48% so với GDP(2). Dù vẫn thấp hơn mức Quốc hội thông qua là 3.5% GDP, nhưng NSNN liên tục thâm hụt khiến việc giảm chi tiêu của chính phủ để đáp ứng nhu cầu trả nợ là rất khó khăn. Tăng thuế hoặc các loại phí nhằm tăng nguồn thu hay vay mới trả nợ cũ lại không phải là biện pháp lâu dài, nhất là khi thị trường tài chính Việt Nam còn tương đối non trẻ, chưa phát triển toàn diện. Chưa kể đến, Việt Nam có lượng dự trữ ngoại hối khá hạn chế, cắt giảm ODA sẽ phần nào gây nên sự thiếu hụt ngoại tệ, đi kèm những tác động từ bối cảnh toàn cầu sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất ổn định của đồng bản tệ, quy mô nợ của Chính phủ cũng do đó mà tăng lên.

Kể từ tháng 7/2017 khi Ngân hàng Thế giới chính thức ngừng cung cấp vốn IDA (vốn vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế) cho Việt Nam, đi kèm những ảnh hưởng rõ ràng về mặt phát triển kinh tế là những lo ngại về tác động đối với phát triển xã hội. Chương trình IDA có sứ mệnh chính là giảm nghèo và bất bình đẳng trong việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tại Việt Nam, nguồn vốn này thường được dành cho các chương trình giảm bất bình đẳng giới, thay đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Khi nguồn vốn vay trở nên kém ưu đãi, những dự án được ưu tiên ắt hẳn sẽ thiên về những hoạt động có khả năng thu hồi vốn cao, các dự án mang tính chất phục vụ mục tiêu xã hội sẽ khó có cơ hội cạnh tranh. Bên cạnh đó, "tốt nghiệp" ODA cũng có nghĩa nền kinh tế đã có bước phát triển nhất định, mà song hành chính là sự gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Không còn được tiếp cận với vốn IDA sẽ phần nào gây khó khăn cho quá trình giảm nghèo và bất bình đẳng, trong khi hậu IDA chính là thời điểm cần nhiều ưu tiên cho những lĩnh vực này. Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan và Philippines vẫn còn nóng hổi, khi mà cả hai quốc gia này đã và đang phải đối phó với tình trạng chênh lệch giàu nghèo ngày càng trở nên sâu rộng sau hơn 20 năm "tốt nghiệp" IDA.

Thuận lợi

Giảm nguồn viện trợ từ các đối tác phát triển sẽ gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam, tuy nhiên, không phải là điều bất ngờ, bởi nước ta cũng đã dự liệu và chuẩn bị tâm thế để đón nhận những tác động có thể xảy đến. Hơn nữa, đi kèm với những tác động tiêu cực cũng là cơ hội và thời cơ để Việt Nam có thể lạc quan trong bối cảnh này.

Thứ nhất, nguồn vốn viện trợ ưu đãi, giá rẻ luôn đi kèm những điều kiện, đòi hỏi nhằm bảo đảm lợi nhuận của những công ty từ nước tài trợ, qua đó làm mất đi hoặc giảm cơ hội, lợi nhuận của các công ty thuộc nước tiếp nhận ODA. Nước vay có thể phải dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan đối với những mặt hàng của các nước cho vay, hoặc phải mua thiết bị, thuê dịch vụ, nhân sự từ các nước cho vay với chi phí tương đối cao. Chẳng hạn với các khoản vay từ Hàn Quốc, một trong các yêu cầu bắt buộc là nhà thầu phải là công ty Hàn Quốc hoặc liên danh mà công ty Hàn Quốc nắm giữ nhiều hơn 50% cổ phần. Hay trường hợp của Trung Quốc, nước tiếp nhận vốn ODA buộc phải cho phép đưa công nhân Trung Quốc sang thực hiện dự án. Nguồn ODA giảm dần nghĩa là những điều kiện này cũng sẽ bị tháo bỏ, cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước cũng nhờ vậy mà tăng lên, vốn đầu tư cho các chương trình, dự án có thể phần nào giảm xuống.

Thứ hai, trước những khoản vay đắt đỏ hơn, Việt Nam buộc phải tính toán để sử dụng nguồn vay một các hiệu quả nhất. Trên thực tế, tính hiệu quả của các dự án đầu tư bằng vốn ODA vẫn luôn là một vấn đề nóng, khi mà với tâm lý được cho không, nhiều đơn vị thực hiện dự án chưa có những tính toán chặt chẽ, gây ra nhiều thất thoát, lãng phí. Nghị định 52/2017/NĐ-CP về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, Thành phố được coi là một trong những bước quan trọng chuẩn bị cho quá trình tốt nghiệp ODA của Việt Nam. Các địa phương khó khăn về ngân sách vẫn được cấp phát, nhưng các địa phương phát triển hơn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng… sẽ giảm mạnh vốn cấp phát đối với các dự án. Như vậy, các địa phương sẽ phải tính toán liệu nguồn vốn này có thể mang lại hiệu quả từ việc thu phí, thuế để trả nợ hay không, nếu dự án không hiệu quả, không thể trả nợ thì sẽ vay ít hơn. Nâng cao trách nhiệm của đơn vị tiếp nhận nguồn vốn phần nào sẽ giảm bớt được tình trạng xin viện trợ tràn lan nhưng sử dụng lại không mấy hiệu quả.

Về dài hạn, khi cắt giảm nguồn vốn ODA, Việt Nam sẽ buộc phải tăng cường tính độc lập, tính tự lập trong hoạt động huy động vốn và hoạt động kinh doanh. Thay vì lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, Việt Nam sẽ phải tự lực vươn lên, phát huy đến mức tối đa năng lực nội tại của nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi những nguồn vốn giá rẻ trở nên khan hiếm, người sử dụng vốn cũng phải trở nên khắt khe hơn để đảm bảo tính hiệu quả. Những thất thoát, lãng phí nhờ đó cũng sẽ được giám sát kỹ càng hơn và giảm bớt.

Việt Nam cần làm gì?

Những khó khăn mà tình trạng nguồn vốn viện trợ sụt giảm gây nên hoàn toàn có thể được khắc phục nếu Việt Nam chuẩn bị tốt cho quá trình tốt nghiệp ODA. Dự kiến, tổng nhu cầu huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016-2020 là rất lớn, khoảng 39,5 tỷ USD (ngoài 22 tỷ USD chuyển tiếp từ thời kỳ 2011 - 2015). Hiện tại, khoản vay dài nhất của Việt Nam có thời hạn đến năm 2055, bình quân thời gian các khoản nợ vay là 12,5 năm(3). Như vậy, trong vòng gần 40 năm nữa, Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả nợ ODA. Tuy vậy, một kế hoạch chi tiết nhằm "tốt nghiệp" ODA trong vòng 15 - 20 năm tới là vô cùng cần thiết.

Khi nguồn vốn ODA chấm dứt, Việt Nam sẽ buộc phải tăng vay trong nước và vay thương mại ưu đãi nước ngoài để huy động thêm các nguồn lực. Nhưng hệ quả tất yếu là gánh nặng nợ công sẽ trở nên trầm trọng hơn, do nguồn vốn này chịu mức lãi suất cao hơn. Giải pháp đầu tiên vẫn là thắt lưng buộc bụng, siết chặt ngân sách chi tiêu dành cho bộ máy công quyền. Với các dự án đã ký kết hoặc đang thực hiện, cần tăng cường kiểm tra, giám sát bảo đảm hiệu quả đầu tư, thúc đẩy tiến độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân, tránh tình trạng kéo dài gây đội chi phí. Công tác chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí phải được đẩy mạnh hơn nữa. Với các chương trình, dự án sắp ký kết, cần ưu tiên cho các dự án đầu tư công quan trọng thuộc các lĩnh vực then chốt hoặc có khả năng thu hồi vốn. Thay vì vay nợ thuần tuý, các chương trình, dự án nên đi kèm những yếu tố mang giá trị lâu dài và quyết định trong công cuộc phát triển những chuyển giao, hỗ trợ về kinh nghiệm, ý tưởng, kiến thức chuyên môn, dữ liệu,...

Bên cạnh đó, Chính phủ cần tăng cường mở rộng cửa với khối Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong việc thực hiện các dự án ODA. DNTN là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy nền kinh tế, khi nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia thì tính công khai, minh bạch, cạnh tranh sẽ cao hơn, tạo ra môi trường bình đẳng hơn. Trao cơ hội cho DNTN tiếp cận nguồn vốn ODA sẽ giúp hạ cơn khát vốn của doanh nghiệp, giúp DN giảm chi phí vốn. Trên thực tế, khi lấy ý kiến đóng góp dự thảo Nghị định về quản lý sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn vay ưu đãi vào đầu năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã từng đề xuất việc DNTN có thể tiếp cận với nguồn tín dụng từ vốn vay ODA hay vốn vay ưu đãi để thực hiện các dự án hợp tác công tư (PPP). Dẫu nội dung này sau đó không được chấp thuận và đưa vào Nghị định chính thức, đây cũng là một bước đi đáng mừng cho thấy “cánh cửa” đã phần nào hé mở. Để các DNTN được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi ODA một cách bình đẳng sẽ giúp tăng tính minh bạch trong việc sử dụng ODA, giảm sự cấu kết lợi ích nhóm, tham nhũng, khuyến khích chuyển giao công nghệ và phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Tăng cường hình thức hợp tác công tư (PPP) cũng là một phương án cần chú trọng để thu hút nguồn lực đầu tư, đồng thời tận dụng được những ưu thế sẵn có của khối tư nhân. Hiện nay, một số văn kiện pháp lý về PPP đã được ban hành, như Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức PPP và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Tuy nhiên, các văn kiện này vẫn còn hạn chế nhất định, chưa tạo được môi trường hấp dẫn, các phương thức đầu tư linh hoạt, thuận lợi cho các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài cùng tham gia với các cơ quan Chính phủ trong việc thực hiện các dự án hạ tầng quan trọng của quốc gia. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, qua đó hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý, cơ chế trả nợ.

Sau cùng, bản thân các đơn vị thực hiện dự án ODA, các cơ quan lãnh đạo và người dân cần ý thức được sự cần thiết, tính cấp bách của việc không phụ thuộc vào nguồn viện trợ nước ngoài và có mong muốn tốt nghiệp ODA càng sớm càng tốt. Như trường hợp của Hàn Quốc, đất nước nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển kể từ những năm 1960 luôn cho rằng đây là “nỗi hổ thẹn” và hạn chế nhận ODA đến mức tối đa. ODA đầu người đạt mức cao nhất trong thời kì 1960-1972 nhưng cũng chỉ khoảng 10USD, sau đó giảm dần. Chính phủ và người dân Hàn Quốc đã rất nỗ lực tham gia vào phát triển kinh tế, qua đó mang đến một thành tựu thần kì khi quốc gia này chính thức ngừng nhận viện trợ sau 30 năm và từ năm 1993 chuyển từ vai trò nước tiếp nhận sang nước tài trợ(4). Chỉ khi có ý thức tốt nghiệp ODA thì mới có động lực nâng cao hiệu quả sử dụng dòng vốn, tiến hành các bước chuẩn bị cần thiết cho giai đoạn hậu ODA.

Tài liệu tham khảo:

1. An Nhiên (2016), “Mỗi năm NSNN phải bố trí khoảng 1 tỷ USD để trả nợ nước ngoài”, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/101-6980-moi-nam-nsnn-phai-bo-tri-khoang-1-ty-usd-de-tra-no-nuoc-ngoai.html.

2. Bộ Tài Chính, Báo cáo Tổng kết công tác Tài chính - Ngân sách Nhà nước năm 2017.

3. Khánh Huyền (2016), “Nhu cầu vốn ưu đãi giai đoạn 2016-2020 khoảng 39.5 tỷ USD” http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2016-02-19/nhu-cau-von-uu-dai-giai-doan-2016-2020-khoang-395-ty-usd-28807.aspx.

4. Trần Văn Thọ (2017), “Tiến tới tốt nghiệp ODA toàn phần”, Tạp chí Tia Sáng, http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Tien-toi-%E2%80%9Ctot-nghiep%E2%80%9D-ODA-toan-phan-10748.

ThS. Phạm Mai Ngân
TS. Nguyễn Thị Kim Oanh

Nguồn: TCNH số 23/2018

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế giữa các địa phương và hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp tại Việt Nam dựa trên tiêu chí ESG. Dữ liệu được thu thập từ hình ảnh vệ tinh và thông tin của hơn 1.000 doanh nghiệp trên cả nước. Kết quả giúp đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động bền vững và đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Xem thêm
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng