Ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ quản trị rủi ro trong quá trình triển khai tài chính toàn diện tại Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Tài chính toàn diện là việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu với chi phí hợp lý tới tất cả người dân, bao gồm tất cả việc cung cấp các dịch vụ tài chính ...
aa

Tài chính toàn diện là việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu với chi phí hợp lý tới tất cả người dân, bao gồm tất cả việc cung cấp các dịch vụ tài chính (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm); Nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng.

Với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và truyền thông, việc triển khai tài chính toàn diện dựa trên nền tảng công nghệ số đang được các tổ chức triệt để tận dụng bởi nó đem lại nhiều lợi thế so với các giải pháp truyền thống.

1. Vai trò, ích lợi của ứng dụng CNTT trong triển khai tài chính toàn diện

Việc ứng dụng CNTT triển khai tài chính toàn diện có thể được tóm lược một số lợi ích tài chính như sau:
Bổ sung được các dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số, gia tăng tiếp cận dịch vụ qua các kênh giao dịch điện tử cho người dân.

Hỗ trợ nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ tài chính, nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ tài chính, nâng cao chất lượng hỗ trợ khách hàng cho các tổ chức tài chính.

Giảm chi phí (cả phía nhà cung cấp cũng như phía người sử dụng), giảm rủi ro mất mát, trộm cắp như trong các giao dịch tiền mặt.

Hỗ trợ nâng cao kiến thức tài chính cho người dân (cung cấp thông tin, giúp người dân dễ dàng tiếp cận các kiến thức tài chính thông qua Internet, gia tăng hiểu biết, kỹ năng tài chính cho người dân…).

Việc triển khai tài chính toàn diện dựa trên nền tảng công nghệ số đem lại nhiều lợi thế

so với các giải pháp truyền thống


Nâng cao hoạt động quản lý, giám sát của cơ quan quản lý (ứng dụng công nghệ trong công tác báo cáo, sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn - big data, blockchain…), cơ quan quản lý thu thập được đầy đủ thông tin hơn, có các công cụ phân tích đánh giá hiệu quả hơn, từ đó ban hành được các chính sách một cách kịp thời và phù hợp với sự vận động của thị trường, giảm thiểu được rủi ro.

2. Một số khó khăn và rủi ro có thể xảy ra khi ứng dụng CNTT trong triển khai tài chính toàn diện

Việc ứng dụng CNTT để triển khai tài chính toàn diện bên cạnh những lợi thế cũng có không ít những thách thức, khó khăn và rủi ro có thể xảy ra:

2.1. Rủi ro pháp lý

Rủi ro pháp lý có thể xảy ra khi:
- Khuôn khổ pháp lý để có thể kiểm soát, quản lý các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức công nghệ tài chính;
- Cơ quan quản lý chưa có đầy đủ thông tin về thị trường nên có thể dẫn đến ban hành các chính sách quản lý chưa phù hợp.

2.2. Rủi ro công nghệ và hạ tầng kỹ thuật

Đây là loại rủi ro có thể xuất hiện khi:
- Sự phát triển quá nhanh chóng của công nghệ tài chính thường đi kèm các vấn đề an toàn bảo mật, an ninh mạng, tội phạm công nghệ cao, cơ chế hợp tác trong chia sẻ thông tin giữa các tổ chức trong nước và ngoài nước chưa tốt. Việc phát triển các dịch vụ, mạng lưới cung ứng dịch vụ ngân hàng như Mobile Banking, Internet Banking, SMS Banking, Ví điện tử có khả năng dẫn tới các hoạt động rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố do các đơn vị cung cấp dịch vụ có thể thiếu đầu tư đầy đủ hoặc chưa làm chủ hoàn toàn về kỹ thuật, nghiệp vụ, an toàn an ninh hệ thống.

- Cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông chưa đủ điều kiện để các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính triển khai cung cấp các dịch vụ tài chính mới, giá rẻ và thuận lợi hơn; Hạ tầng thanh toán điện tử chưa theo kịp với nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền của thị trường.

- Thiếu các hệ thống thông tin định danh cá nhân, thiếu dữ liệu đầu vào chấm điểm tín dụng cá nhân, thiếu hệ thống thông tin về bên cung và bên cầu dịch vụ, hệ thống thông tin tín dụng chưa đầy đủ thông tin, thiếu các công cụ hỗ trợ quản lý tài chính cho bên cầu, trang thông tin về kiến thức tài chính cho bên cầu còn hạn chế, các thiết bị đầu cuối (như điện thoại di động thông minh) để kết nối sử dụng dịch vụ cung cấp cho bên cầu ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn có giá còn cao so với khả năng chi trả của bên cầu,...

2.3. Rủi ro trong hoạt động và tuân thủ các quy định

Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro hoạt động và tuân thủ các quy định:
- Bên cung phát triển và cung cấp dịch vụ không phù hợp cho đối tượng sử dụng; nguồn cung vượt quá khả năng hấp thụ của thị trường hoặc nguồn cung dịch vụ không đủ nhu cầu thị trường;
- Một số tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính không có đủ tiềm lực tài chính cung cấp dịch vụ với giá rẻ (có thể chấp nhận thấp hơn so với chi phí đầu tư, duy trì hoạt động cung cấp dịch vụ) trong thời gian dài với mục đích kích cầu tiêu dùng;
- Mạng lưới chi nhánh bên cung không vươn tới được bên cầu để cung cấp dịch vụ hoặc mạng lưới bên cung không đủ năng lực cung cấp dịch vụ cho bên cầu;
- Thiếu nguồn lực có đủ năng lực cả về chuyên môn tài chính và công nghệ thông tin;
- Khả năng tiếp thu công nghệ, sử dụng các ứng dụng dịch vụ tài chính, ngân hàng trên các thiết bị công nghệ của người dân vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn;
- Bên cầu chưa có đủ kiến thức hoặc hiểu chưa đúng về các dịch vụ tài chính mà họ muốn tiếp cận, chưa được trang bị các kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng, do đó người sử dụng dễ bị kẻ gian lợi dụng...; tâm lý còn e ngại sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ;
- Các bên liên quan không tuân thủ đầy đủ các quy định của Nhà nước về an toàn, an ninh bảo mật, đảm bảo hoạt động liên tục hệ thống thông tin (có thể do chưa hiểu hết các quy định của Nhà nước) nên dẫn đến rủi ro trong quá trình cung cấp, sử dụng dịch vụ.

3. Ứng dụng CNTT để hỗ trợ quản trị rủi ro trong quá trình triển khai tài chính toàn diện

Trước các rủi ro có thể xảy ra nêu trên, vai trò của CNTT lại một lần nữa khẳng định ưu thế của mình đối với hỗ trợ quản trị rủi ro trong quá trình triển khai tài chính toàn diện. Cụ thể những nội dung ứng dụng CNTT hỗ trợ quản trị rủi ro trong quá trình triển khai tài chính toàn diện, bao gồm:

3.1. Về ứng dụng công nghệ

- Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0:
+ Ứng dụng công nghệ Blockchain, sổ cái phân tán trong phát triển các dịch vụ tài chính số;
+ Ứng dụng công nghệ Big Data trong các dịch vụ thông tin tín dụng và nhằm nâng cao khả năng quản lý, giám sát và quản trị rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế, phục vụ các mô hình phân tích, dự báo về hành vi, sở thích khách hàng để thiết kế, giới thiệu, cung ứng sản phẩm phù hợp với từng đối tượng khách hàng;
+ Ứng dụng công nghệ AI để thực hiện tự động một số công đoạn hỗ trợ tự động người sử dụng;
+ Ứng dụng công nghệ IoT, điện toán đám mây và tận dụng sử dụng hạ tầng CNTT và viễn thông quốc gia dùng chung giá rẻ làm môi trường cho việc cung cấp các dịch vụ tài chính số tới khách hàng.

- Áp dụng công nghệ tuân thủ Regtech (Regulatory technology): Đây là công nghệ giúp các tổ chức dịch vụ tài chính đáp ứng các quy tắc tuân thủ về tài chính, đặc biệt là các quy định về phòng chống rửa tiền và chống gian lận thông qua những quy định về xác minh thông tin khách hàng của các tổ chức tài chính.

- Áp dụng công nghệ giám sát Suptech (Supervisory technology): Là công nghệ hỗ trợ giám sát tuân thủ, Suptech được sử dụng trong các ứng dụng thu thập và phân tích dữ liệu. Việc sử dụng công nghệ Suptech giúp tăng cường năng lực của tổ chức, hiệu quả của dịch vụ cung cấp, đồng thời giảm thiểu chi phí.

- Ứng dụng công nghệ giao tiếp lập trình ứng dụng mở (Open API) nhằm tạo ra môi trường trao đổi, xử lý thông tin thuận lợi, nâng cao ứng dụng riêng, tăng doanh thu, tăng tính sáng tạo của tổ chức.

- Áp dụng các công nghệ an ninh, an toàn bảo mật trong phát triển, xây dựng các dịch vụ tài chính, ngân hàng trên nền tảng kỹ thuật số (Chữ ký số, OTP, Sinh trắc học, Xác thực 2 kênh (2-Factor Authentication), Tokenization,...), triển khai áp dụng các tiêu chuẩn thẻ chip, QR Code,... để tăng khả năng chống gian lận, giảm rủi ro.

- Xây dựng Hệ thống thông tin (cơ sở dữ liệu) về tổ chức cung cấp dịch vụ và người sử dụng (cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình,... có nhu cầu sử dụng dịch vụ) để giúp đo lường, đánh giá chính xác về nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính:
+ Dữ liệu thu thập từ các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính như mạng lưới giao dịch, hệ thống thanh toán, dịch vụ tín dụng, huy động vốn, về một số chỉ tiêu chọn lọc như số lượng máy ATM, chi nhánh, điểm giao dịch, đầu POS,...;
+ Dữ liệu về người sử dụng gồm những số liệu thu thập từ đối tượng sử dụng dịch vụ hoặc có tiềm năng về nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính được sử dụng để hiểu, đánh giá về nhận thức, nhu cầu, rào cản tiếp cận tài chính của các đối tượng này;
+ Dữ liệu thống kê về các rủi ro, sự cố đã xảy ra trong quá khứ đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính số;

- Nâng cấp, hoàn thiện các hệ thống thanh toán, trung gian thanh toán, cổng thanh toán.

- Nâng cấp, phát triển và hoàn thiện Hệ thống thông tin tín dụng, tạo thuận lợi cho mọi đối tượng được tiếp cận sử dụng dễ dàng, thông qua Hệ thống này và một số hệ thống thông tin liên quan khác, cơ quản lý nhà nước có thể dự báo được các tiềm ần rủi ro đối với bên cung và bên cầu khi tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ tài chính, đồng thời ban hành kịp thời các quy định pháp lý nhằm hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho các đối tượng tham gia dịch vụ tài chính.

- Phát triển, cung cấp các Hệ thống thông tin giám sát, phân tích và đánh giá rủi ro... cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để phục vụ mục đính quản lý, giám sát, đánh giá rủi ro,... từ đó người dân, doanh nghiệp, tổ chức cung cấp dịch vụ có các quyết định hợp lý khi lựa chọn cung cấp, sử dụng dịch vụ, đồng thời qua đó, cơ quan nhà nước có thể ban hành được các chính sách phù hợp đối với thị trường.

- Xây dựng Hệ thống thông tin định danh khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bên cung và bên cầu hiểu rõ lẫn nhau, nắm bắt được nhu cầu khách hàng, theo đó tạo điều kiện cho việc đăng ký sử dụng dịch vụ và cung cấp dịch vụ dễ dàng. Qua Hệ thống thông tin định danh, các bên liên quan có được các thông tin chính xác về các đối tượng sử dụng dịch vụ để có các quyết định phù hợp trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, đồng thời tạo điều kiện cho công tác báo cáo, thống kê, quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước. Ví dụ: Hệ thống thông tin định danh khách hàng sẽ tạo điều kiện cho người dân đăng ký được cấp tài khoản ngân hàng, sử dụng dịch vụ tài chính, ngân hàng mà không phải đến trực tiếp ngân hàng.

Kết nối liên thông các Hệ thống thông tin của các tổ chức cung cấp dịch vụ và cơ quan nhà nước nhằm chia sẻ thông tin giữa các hệ thống để làm phong phú, đầy đủ thông tin cho các bên liên quan. Qua đó các bên có các quyết định cung cấp, sử dụng dịch vụ phù hợp, giảm thiểu rủi ro, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước có được đầy đủ thông tin về thị trường cung ứng và sử dụng dịch vụ tài chính để phân tích, đánh giá, dự báo, cảnh báo được các rủi ro tiềm ẩn (nếu có).

- Cung cấp Trang thông tin điện tử hỗ trợ bảo vệ người sử dụng dịch vụ. Phát triển các kênh thông tin kiến thức về tài chính, ngân hàng thuận tiện, dễ sử dụng trên môi trường Internet để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận.

- Phát triển, cung cấp các ứng dụng quản lý tài chính cá nhân với giá rẻ cho người dân cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông nhằm cung cấp đủ tài nguyên và đảm bảo an ninh thông tin, an toàn bảo mật, duy trì hoạt động liên tục cho việc phát triển, cung ứng các dịch vụ tài chính, ngân hàng trên các nền tảng công nghệ của CMCN 4.0. Nâng cấp, phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng, tài chính cung cấp qua môi trường Internet (Internet Banking, Mobile Banking, Ví điện tử…), mạng điện thoại (SMS Banking…).

- Phát triển công nghiệp điện tử viễn thông và CNTT nhằm tạo ra các thiết bị di động thông minh giá rẻ, có khả năng kết nối sử dụng các dịch vụ tài chính qua môi trường Internet.

3.2. Về khuôn khổ pháp lý

a) Đối với cơ quản lý nhà nước cần nghiên cứu, triển khai:

- Rà soát, hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính phát triển, thu hút đầu tư; làm cơ sở cho NHNN thực hiện chức năng quản lý, kiểm soát hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ứng dụng công nghệ.
- Ban hành các quy định cho phép hoạt động cung cấp thử nghiệm các dịch vụ tài chính số mới.
- Ban hành các quy định kiểm soát chặt chẽ các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số có tiềm ẩn rủi ro cao, ví dụ như:
+ Ban hành quy định về kiểm soát chặt chẽ các tài khoản viễn thông, các dịch vụ thanh toán điện tử, trung gian thanh toán điện tử có tiềm ẩn rủi ro (ví dụ: Ban hành quy định quản lý chặt chẽ hoạt động cho vay ngang hàng - P2P Lending, trong đó có các nội dung quy định bắt buộc về chia sẻ đầy đủ thông tin trực tuyến cho cơ quan quản lý nhà nước);
+ Ban hành quy định về quy chế hoạt động cho các Hệ thống thông tin định danh khách hàng phục vụ công tác đối chiếu, kiểm tra chéo; Hệ thống thông tin về bên cung, bên cầu dịch vụ giúp đo lường, đánh giá chính xác nhu cầu về sử dụng và khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính; Hệ thống thông tin giám sát, phân tích và đánh giá rủi ro,... cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để phục vụ mục đính quản lý, giám sát, đánh giá rủi ro cho các bên liên quan...;
+ Ban hành tiêu chuẩn Open API để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối liên thông giữa các Hệ thống thông tin của tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, qua đó giảm chi phí đầu tư, tăng tính sáng tạo.
- Tuyên truyền, phổ biến các quy định của nhà nước về cung cấp, sử dụng dịch vụ tài chính, các quy định về an toàn, an ninh và đảm bảo hoạt động liên tục hệ thống thông tin.

b) Đối với bên cung cấp và bên sử dụng dịch vụ cần thực hiện:

Tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước. Cụ thể như:
- Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt;
- Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt;
- Nghị định số 16/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định về điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 Hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
- Thông tư 02/2019/TT-NHNN ngày 28/02/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
- Thông tư số 36/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012 quy định về trang bị, quản lý, vận hành và đảm bảo an toàn hoạt động của máy giao dịch tự động;
- Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 Hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán;
- Thông tư số 20/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012 quy định về trang bị, quản lý, vận hành và đảm bảo an toàn hoạt động của máy giao dịch tự động và Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán;
- Thông tư số 35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 của NHNN Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên internet;
- Thông tư số 35/2018/TT-NHNN ngày 24/12/2018 về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet;
- Thông tư 18/2018/TT-NHNN ngày 21/8/2018 của NHNN Quy định về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng;
Cùng với việc thực hiện tốt các quy định, các đơn vị cung cấp và sử dụng dịch vụ cần nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị cơ quan Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi, sổ sung các quy định để tạo điều kiện cung cấp, sử dụng dịch vụ một cách an toàn, giảm thiểu rủi ro, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, bảo vệ người tiêu dùng.

Ths. Đoàn Thanh Hải

Nguồn: TCNH- Chuyên đề Tin học Ngân hàng số 5/2019


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI đang mở ra những cơ hội chưa từng có trong việc cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàngViệt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc triển khai GenAI, tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đang dần vượt qua những rào cản này để tận dụng tiềm năng to lớn của GenAI trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Với sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng, GenAI hứa hẹn sẽ mang lại những trải nghiệm khách hàng cá nhân hóa tiên tiến, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng, tăng cường lòng trung thành và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho các ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là động lực quan trọng để các ngân hàng thích nghi và phát triển trong thời đại số hóa.
Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc tích hợp công nghệ số vào mọi khía cạnh của hoạt động, mà còn là quá trình thúc đẩy sự thay đổi và cải thiện toàn diện. Qua đó, ngân hàng không chỉ tạo ra các phương pháp mới hoặc điều chỉnh các quy trình kinh doanh, mà còn tạo điều kiện cho việc thay đổi văn hóa tổ chức và cải thiện trải nghiệm của khách hàng.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc