Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh tiên phong chuyển đổi số trong chương trình đào tạo

Công nghệ & ngân hàng số
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (Ho Chi Minh University of Banking - HUB) với hơn 45 năm hình thành và phát triển đã khẳng định vị thế của một trong những trường đại học hàng đầu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, kinh tế, kinh doanh, quản lý; là cái nôi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
aa

Tóm tắt:

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (Ho Chi Minh University of Banking - HUB) với hơn 45 năm hình thành và phát triển đã khẳng định vị thế của một trong những trường đại học hàng đầu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, kinh tế, kinh doanh, quản lý; là cái nôi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành tài chính - ngân hàng và nền kinh tế. Trường đã tích cực cải tiến và phát triển chương trình đào tạo theo hướng cung cấp tri thức hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, có khả năng liên thông và hội nhập quốc tế, phát triển khoa học - công nghệ theo chiều sâu, phát huy lợi thế ở ngành mũi nhọn.

Trong những năm qua, thương hiệu HUB ngày càng được khẳng định và luôn nằm trong top các trường đại học dẫn đầu khối ngành kinh tế, cùng với sự quan tâm, ủng hộ của nhiều phụ huynh trong việc lựa chọn, đăng ký ngành, chuyên ngành mới cho sinh viên, đặc biệt chiếm ưu thế đối với các chương trình đào tạo mới.

Từ khóa: Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, HUB, chương trình đào tạo, hiện đại.


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng số hóa đã và đang tác động sâu rộng đến tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế và thay đổi mạnh mẽ đến mọi hoạt động trong xã hội nói chung và của người tiêu dùng nói riêng, trên phạm vi toàn cầu - từ quan điểm về giá trị, hành vi, cho tới cách thức tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả.

Cùng với sự bùng phát của đại dịch Covid-19 trong thời gian qua càng thể hiện một cách sâu sắc hơn, rõ ràng hơn, khi mọi chủ thể phải tìm mọi cách ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để thực hiện các hành vi nhằm thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu, nhu cầu của mình. Điều đó càng khẳng định, việc chuyển đổi số là yêu cầu cấp bách trong nền kinh tế - xã hội, từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến định hướng của các ban, ngành từ Trung ương đến địa phương đều đang rất quyết liệt thực hiện chuyển đổi số nhanh chóng và kịp thời, thể hiện qua các chương trình, kế hoạch hành động.


Nhằm đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan quản lý Nhà nước, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ với yêu cầu tất yếu của kinh tế - xã hội về chuyển đổi số, ngày 11/5/2021, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định số 810/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Đối với ngành Giáo dục, từ năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Kế hoạch số 345/KH-BGDĐT thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”. Cho đến ngày 29/6/2021, Cục Công nghệ thông tin trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 357/CNTT “V/v góp ý dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu: Thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ trong phương thức dạy và học, quản lý giáo dục và quản trị nhà trường, góp phần tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả của hệ thống giáo dục quốc dân, hình thành nền tảng số cho xã hội học tập tạo cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng tốt với chi phí thấp cho mọi người dân.

Trước bối cảnh đó, để thành công trong thế giới kinh doanh của thời đại số đòi hỏi chuyên viên, nhà quản trị hay lãnh đạo doanh nghiệp đều cần phải trau dồi những kiến thức và kỹ năng chuyên môn thiết yếu để có thể thích nghi với những biến đổi không ngừng, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.

Nắm bắt kịp thời xu thế, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động và tiên phong trong vấn đề chuyển đổi số ngay trong các chương trình đào tạo. Nhiều chương trình đào tạo mới được xây dựng và ban hành theo hướng hiện đại, khai phóng, liên ngành và có tính ứng dụng cao, nhằm trang bị hành trang về kỹ năng, kiến thức, trình độ và thái độ cho sinh viên với mục tiêu trở thành công dân chủ động và sáng tạo trong nền kinh tế số.

Trong 02 năm qua, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành và tuyển sinh 07 chương trình đào tạo mới theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI). Các chương trình đào tạo này đều được đối sánh với các chương trình đào tạo của các trường tiên tiến trong và ngoài nước. Đồng thời, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức khảo sát, tổ chức hội thảo, lấy ý kiến của các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp, cựu sinh viên, người sử dụng lao động, chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo… được đánh giá cao về sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhu cầu của doanh nghiệp, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và trình độ của lao động… Thành tựu bước đầu được ghi nhận từ kết quả dữ liệu tuyển sinh tăng trưởng ổn định và bền vững qua các năm, vị thế thương hiệu Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - HUB ngày càng được khẳng định và luôn nằm trong top các trường đại học dẫn đầu khối ngành kinh tế, nhận được nhiều sự quan tâm của phụ huynh trong lựa chọn, đăng ký ngành, chuyên ngành mới cho sinh viên.

1. Những kết quả đạt được

Với hơn 45 năm hình thành và phát triển, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định vị thế của một trong những trường đại học hàng đầu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, kinh tế, kinh doanh, quản lý.

Trường đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn Hệ thống quản lý chất lượng ISO 2001 - 2015, đạt chuẩn kiểm định chất lượng cấp cơ sở giáo dục theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và đã đạt kiểm định AUN - QA đối với Chương trình đào tạo ngành tài chính - ngân hàng. Bên cạnh đó, Trường cũng đang chuẩn bị cho việc kiểm định AUN - QA đối với các ngành còn lại. Đây là những tiền đề thuận lợi căn bản trong công tác tuyển sinh của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian qua, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng và phát triển được 07 chương trình đào tạo như: Công nghệ tài chính (Fintech); Kế toán Kỹ thuật số (Digital Accounting); Quản trị kinh doanh - định hướng Kinh doanh số (Digital Business); Hệ thống thông tin kinh doanh và chuyển đổi số; Khoa học dữ liệu trong kinh doanh; Digital Marketing; Quản trị thương mại điện tử. Mỗi chương trình đào tạo đều có ưu thế riêng, tổng hòa hệ sinh thái giáo dục của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy sự đa dạng về chương trình đào tạo và bao quát phần lớn trong khối ngành kinh tế. Các chương trình đào tạo được xây dựng mới theo định hướng hiện đại nhưng vẫn đảm bảo về nền tảng của chuyên ngành đào tạo và được tích hợp các học phần mới; đồng thời, cải tiến các học phần hiện có theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin, đảm bảo khả năng liên ngành và hội nhập quốc tế, phát triển khoa học - công nghệ theo chiều sâu; qua đó, trang bị cho người học năng lực vận dụng các công cụ phân tích dữ liệu vào phân tích và dự báo dựa trên Big Data, bao gồm cả dữ liệu phát sinh bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, thư viện về AI. Kết quả khai phá dữ liệu đặc biệt hữu ích cho ngân hàng, doanh nghiệp và nhà quản lý trong việc đánh giá, dự đoán rủi ro, dự báo kế hoạch phát triển trong tương lai, từ đó, có những điều chỉnh thích hợp trong kế hoạch hoạt động và chiến lược kinh doanh của ngân hàng, doanh nghiệp nhằm đem lại hiệu quả và an toàn trong hoạt động kinh doanh trước sự biến động của nền kinh tế và sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng cùng với sự cạnh tranh, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo đều được xây dựng trên cơ sở giúp sinh viên có năng lực nghiên cứu và thực hành nghề nghiệp trong kỷ nguyên công nghệ số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Việc phát triển các chương trình đào tạo mới phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của xã hội đã thu hút được sự quan tâm trên thị trường tuyển sinh thể hiện qua kết quả đăng ký và kết quả tuyển sinh cùng với điểm tuyển sinh các năm qua. (Biểu đồ 1, Biểu đồ 2)



Số lượng hồ sơ đăng ký tuyển sinh năm 2021 tăng 140% so với năm 2019 và điểm trúng tuyển các chương trình đào tạo đã tăng từ 03 điểm đến 04 điểm trong 02 năm qua, cùng với khoảng cách điểm chuẩn giữa chương trình đào tạo chính quy chất lượng cao và chính quy chuẩn thu hẹp đáng kể (2,95 điểm xuống còn 0,4 điểm). Kết quả trên cho thấy, việc phát triển và đổi mới chương trình đào tạo đã đúng hướng và phát huy hiệu quả, giúp nâng tầm vị thế của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

Việc phát triển chương trình đào tạo theo định hướng hiện đại, đặc biệt thu hút sự quan tâm và đăng ký tuyển sinh, nhập học chương trình đào tạo chất lượng cao. Dữ liệu tuyển sinh cho thấy, sự tăng trưởng đáng kể về quy mô đào tạo chất lượng cao sau nhiều năm chậm phát triển, với sự phát triển đúng hướng của chương trình đào tạo đã giúp quy mô đào tạo tăng trưởng vượt bậc trong 02 năm (năm 2021 tăng trưởng 174% về quy mô so với năm 2019). (Biểu đồ 3)


Kết quả khảo sát đăng ký ngành, chuyên ngành và thực tế đăng ký của sinh viên cho thấy, sự quan tâm và hấp dẫn của 07 chương trình đào tạo mới theo hướng hiện đại. (Biểu đồ 4)


Kết quả khảo sát trong năm 2020 cho thấy, 42,5% tỷ lệ sinh viên đăng ký học chương trình đào tạo theo định hướng hiện đại, 31,8% đăng ký theo định hướng truyền thống và 25,7% là chưa có quyết định. Tuy nhiên, kết quả đăng ký chính thức thì có 56,2% học chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, còn lại 43,8% học theo định hướng truyền thống. Năm 2021, tỷ lệ đăng ký học chương trình đào tạo theo định hướng hiện đại trên 65%, thực tế học là 70,3%, còn lại 29,7% học theo định hướng truyền thống.

Trong thời gian 02 năm, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển và tuyển sinh 07 chương trình đào tạo mới theo định hướng hiện đại là sự thành công và nỗ lực rất lớn của Đảng ủy, Ban Giám hiệu cùng toàn thể cán bộ, giảng viên toàn trường. Tuy chương trình đào tạo được phát triển và triển khai tuyển sinh rất khẩn trương, nhưng vẫn đảm bảo quy định về xây dựng, phát triển chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; đồng thời, kết quả khả quan từ tuyển sinh và đăng ký lựa chọn học chương trình đào tạo theo định hướng hiện đại của sinh viên cho thấy, sự phát triển là đúng hướng và hiệu quả. Đó là cơ sở để Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục cải tiến, xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo theo định hướng hiện đại trong thời gian tới.

2. Một số nội dung cần hoàn thiện

Việc xây dựng, phát triển và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo mới theo hướng hiện đại bước đầu thành công và đạt kết quả tuyển sinh, đăng ký học của sinh viên rất khả quan, nhưng để xây dựng và phát triển chương trình đào tạo hiệu quả và bền vững hơn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cần hoàn thiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, kết quả khảo sát cho thấy, còn một số sinh viên phân vân trong việc quyết định lựa chọn định hướng truyền thống hay hiện đại để đăng ký chuyên ngành đào tạo. Tỷ lệ này có giảm qua các năm khảo sát, lý do là sự e ngại khó tiếp thu theo định hướng hiện đại với ngôn ngữ lập trình và làm chủ dữ liệu với các thuật toán hiện đại, nhất là đối với sinh viên không có sở trường hay khả năng tiếp thu về công nghệ và ngôn ngữ lập trình cho dữ liệu. Do đó, các khoa đào tạo cần quan tâm hoàn thiện hơn về nội dung bài giảng, lựa chọn nội dung truyền tải một cách đơn giản, dễ hiểu cho tất cả sinh viên có thể tiếp thu tốt kiến thức và nội dung mới, đồng thời bổ sung học liệu video để sinh viên tra cứu khi cần thiết.

Thứ hai, công tác tư vấn, đối thoại sinh viên để lựa chọn định hướng cho ngành/chuyên ngành đào tạo cần được các khoa quan tâm thực hiện thường xuyên và lâu dài, tránh thời điểm cận kề khi sinh viên bắt đầu lựa chọn định hướng hiện đại hay truyền thống để học, việc tư vấn khẩn trương trong thời gian ngắn dẫn đến việc sinh viên khó có thể ra quyết định lựa chọn phù hợp với khả năng và nguyện vọng.

Thứ ba, cần tăng cường hơn nữa hoạt động truyền thông liên quan đến chương trình đào tạo mới, so sánh, đánh giá ưu thế và sự khác biệt giữa các chương trình đào tạo, giữa các định hướng để ngân hàng, doanh nghiệp, người học, xã hội nhận thấy sự khác biệt và ưu việt trong chương trình đào tạo của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng về cổng thông tin, máy chủ, đầu tư nâng cấp phòng thực hành, tăng cường liên kết với ngân hàng, doanh nghiệp đầu tư/hợp tác phòng thực hành cho sinh viên được học tập, tham gia hoạt động thực tế trải nghiệm của sinh viên. Tăng cường thực hành và hoạt động thực tế sẽ giúp cho sinh viên tiếp thu nhanh kiến thức và tăng khả năng hòa nhập môi trường thực tế.

Thứ năm, chất lượng chương trình đào tạo phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ giảng viên, do đó, để chương trình đào tạo hiệu quả, chất lượng thì cần phải nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng đội ngũ giảng viên.

3. Định hướng giai đoạn 2022 - 2025

Một là, kế thừa sự thành công của các chương trình đào tạo mới, tiếp tục xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo có thế mạnh của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh để thu hút học sinh quan tâm và các chương trình đào tạo theo xu thế của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển các chương trình đào tạo mới dựa trên các nguồn lực sẵn có của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh như: Bảo hiểm, Bất động sản, Kinh doanh quốc tế, Kiểm toán, Quản trị nhân lực... đáp ứng nhu cầu xã hội và đa dạng hóa các ngành đào tạo, hỗ trợ tuyển sinh bền vững.

Hai là, đổi mới toàn diện hoạt động giảng dạy, quản trị của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng hiện đại, trên cơ sở ứng dụng và khai thác hiệu quả các thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, chỉ số về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.

Ba là, phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản trị, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến; phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa...

Bốn là, tăng cường áp dụng công nghệ giáo dục, công nghệ thông tin nhằm tạo điều kiện thuận lợi triển khai mạnh mẽ công nghệ số trong các hoạt động dạy và học, kiểm tra đánh giá, quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy hệ sinh thái giáo dục số, góp phần thực hiện thành công việc chuyển đổi số quốc gia.

Phát triển nội dung đào tạo về các công nghệ AI, Big Data, Khoa học dữ liệu, Blockchain vào các chương trình đào tạo.

Kết luận

Nắm bắt kịp thời xu thế, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động và đi tiên phong trong việc xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, khai phóng, liên ngành và có tính ứng dụng cao, với chuẩn đầu ra được xây dựng trên cơ sở giúp sinh viên có năng lực nghiên cứu và thực hành nghề nghiệp trong kỷ nguyên công nghệ 4.0 để trở thành công dân chủ động và sáng tạo trong nền kinh tế số.

Trên cơ sở thành công đã đạt được trong thời gian qua, chương trình đào tạo thời gian tới cần bám sát chủ trương phát triển của ngành Ngân hàng và Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời khắc phục những vấn đề cần hoàn thiện để phát triển bền vững hơn nữa chương trình đào tạo, góp phần nâng tầm hệ sinh thái giáo dục của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định vị thế của một trong những trường đại học hàng đầu đào tạo khối ngành kinh tế ở Việt Nam và vươn tầm khu vực, hòa nhập vào sự phát triển chung của ngành giáo dục toàn cầu.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo tổng kết công tác tuyển sinh năm học 2021 - 2022; phương hướng công tác tuyển sinh năm học 2022 - 2023 và các năm tiếp theo hệ đại học chính quy của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Chiến lược phát triển Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.

3. Công văn số 357/CNTT ngày 29/6/2021 của Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo “V/v góp ý dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”.

4. Kế hoạch số 345/KH-BGDĐT ngày 23/5/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”.

5. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

6. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

7. Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT ngày 22/6/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.



PGS., TS. Nguyễn Đức Trung (Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)

TS. Trần Trọng Huy (Phó Trưởng Phòng Đào tạo Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai là xu hướng mới đầy tiềm năng, hứa hẹn tái định nghĩa trải nghiệm ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Xem thêm
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng