Tỉnh Thái Bình: Tập trung nguồn vốn tín dụng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương

Hoạt động ngân hàng
Vượt qua những khó khăn, thách thức chung của nền kinh tế thế giới và trong nước, những ảnh hưởng tiêu cực do biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…, với sự quyết tâm, cố gắng nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh Thái Bình, năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình có sự chuyển mình và đạt được kết quả tích cực.
aa

Năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh Thái Bình tăng 7,01% so với cùng kỳ năm trước; quy mô nền kinh tế xếp hạng thứ 23/63 tỉnh, thành. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Bình đạt 28.066,4 tỉ đồng, đạt 144% dự toán, tăng 15,7% so với năm trước; trong đó, thu nội địa 11.578,9 tỉ đồng, đạt 134,5% dự toán, tăng 18%; thu hút vốn đầu tư đạt trên 43.177,6 tỉ đồng, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 1,16 tỉ USD, đứng thứ 12/63 tỉnh, thành cả nước. Toàn tỉnh Thái Bình đã có 40 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Công tác giảm nghèo, chăm lo cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng và bảo đảm an sinh xã hội được quan tâm thực hiện tốt… Kết quả trên là thành quả của sự quyết tâm, cố gắng nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và người dân, trong đó có sự đóng góp tích cực của cả hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Bình thời gian qua.

Nguồn vốn ngân hàng đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Nhìn lại năm 2024, tình hình hoạt động của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Bình ổn định, an toàn và hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh tỉnh Thái Bình đã thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn, chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tuân thủ các quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình. Các TCTD trên địa bàn tiếp tục tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tích cực tuyên truyền, thông tin rõ ràng, đầy đủ, chính xác về các chính sách, sản phẩm, dịch vụ, lãi suất cho vay các chương trình tín dụng để khách hàng hiểu rõ và dễ dàng tiếp cận.

Với hệ thống mạng lưới ngân hàng bao phủ rộng khắp trên địa bàn tỉnh Thái Bình, gồm 29 chi nhánh ngân hàng, 85 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), 01 chi nhánh tổ chức tài chính vi mô, 08 chi nhánh ngân hàng cấp huyện và thành phố, 95 phòng giao dịch và 242 điểm giao dịch của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) tại các xã, phường, thị trấn; mạng lưới ngân hàng đã đáp ứng cơ bản nhu cầu dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế và người dân trên địa bàn tỉnh Thái Bình.

Nguồn vốn huy động, tín dụng của các TCTD tăng trưởng đạt mục tiêu đề ra; hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, trong đó, tín dụng tập trung chủ yếu cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các chương trình, chính sách tín dụng của Trung ương, của tỉnh Thái Bình, cho vay xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội; nợ xấu được kiểm soát ở mức thấp; công tác phát triển các dịch vụ, áp dụng công nghệ hiện đại vào ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh; các ngân hàng đưa ra nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán hiện đại, tiện lợi, mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng; cơ cấu tiền mặt hợp lý trong lưu thông, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các doanh nghiệp và nhân dân; qua đó, góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Ngân hàng, duy trì và khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội của tỉnh Thái Bình.

Tỉnh Thái Bình: Tập trung nguồn vốn tín dụng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương
Thành phố Thái Bình (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)

Tính đến hết ngày 31/12/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn tỉnh Thái Bình đạt 132.950 tỉ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, tiền gửi các tổ chức kinh tế chiếm 5,9%; tiền gửi dân cư chiếm 94,1%; tiền gửi dưới 12 tháng chiếm 60%; tiền gửi bằng VND chiếm 98,5% tổng nguồn vốn huy động. Tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn tỉnh Thái Bình đạt 108.230 tỉ đồng, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2023. Các TCTD đã tập trung các giải pháp mở rộng đầu tư tín dụng đi đôi với tăng cường quản lý chất lượng tín dụng; ưu tiên vốn cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, cho vay xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; đa dạng sản phẩm, dịch vụ, đơn giản hóa thủ tục cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và nhân dân. Kết quả cho vay các chương trình tín dụng trên địa bàn tỉnh Thái Bình năm 2024 cụ thể như sau:

Cho vay 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ; ứng dụng công nghệ cao): Dư nợ đạt 1.725 tỉ đồng, chiếm 1,6% tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn. Trong đó, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm 36,2%; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 63,2%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 0,6%.

Cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn dư nợ đạt 36.800 tỉ đồng, tăng 8,7% so với năm 2023 với trên 106 nghìn khách hàng còn dư nợ. Các TCTD trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã thực hiện cho vay đối với trên 230 nghìn doanh nghiệp, cá nhân, hộ sản xuất để phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng nông thôn mới, với dư nợ đạt khoảng 42 nghìn tỉ đồng. Cho vay phát triển thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản dư nợ đạt 86,7 tỉ đồng, số tiền giải ngân 111,4 tỉ đồng đối với 08 chủ tàu vay vốn. Cho vay chương trình nước sạch nông thôn tổng dư nợ đạt gần 1.792 tỉ đồng; trong đó, dư nợ cho vay theo chương trình nước sạch nông thôn của tỉnh Thái Bình đạt 110 tỉ đồng, số tiền giải ngân trên 480 tỉ đồng đối với 23 dự án kinh doanh nước sạch nông thôn; dư nợ cho vay chương trình nước sạch nông thôn của NHCSXH đạt gần 1.682 tỉ đồng.

Cho vay tín dụng chính sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác của NHCSXH Chi nhánh tỉnh Thái Bình dư nợ đạt 4.833 tỉ đồng, chiếm 4,5% tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn. Tổng dư nợ các chương trình chính sách tín dụng ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình thông qua NHCSXH đạt 504,2 tỉ đồng; trong đó, dư nợ cho vay học sinh, sinh viên để mua máy tính, thiết bị học tập trực tuyến 8,6 tỉ đồng; dư nợ cho vay giải quyết việc làm đạt 340 tỉ đồng; cho vay nhà ở xã hội 155 tỉ đồng; dư nợ cho vay đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập 0,6 tỉ đồng.

Đặc biệt, trong năm 2024, công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 đã được NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Bình chỉ đạo các TCTD trên địa bàn kịp thời triển khai các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của cơn bão số 3 khôi phục sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Kết quả, 351 khách hàng đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ với dư nợ được cơ cấu 14,5 tỉ đồng, miễn giảm lãi vay cho hơn 320 khách hàng với dư nợ gần 565 tỉ đồng. NHCSXH Chi nhánh tỉnh Thái Bình đã lập hồ sơ đề nghị xem xét xử lý khoanh nợ cho 22 khách hàng với số tiền gần 730 triệu đồng.

Về mặt bằng lãi suất, năm 2024, các TCTD trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2023. Lãi suất huy động và cho vay bình quân của các TCTD trên địa bàn đối với các giao dịch phát sinh mới ở mức 3,6%/năm và 8,5%/năm. Tỉ lệ nợ xấu của các TCTD trên địa bàn chiếm khoảng 0,9% tổng dư nợ.

Thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã tích cực triển khai hiệu quả Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) giai đoạn 2021 - 2025 và Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ. Hoạt động TTKDTM đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống ATM hoạt động ổn định, an toàn và thông suốt, phục vụ tốt cho nhu cầu thanh toán của người dân. Hoạt động thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng tiếp tục được mở rộng triển khai rộng rãi, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an sinh xã hội, thu ngân sách nhà nước.

Các TCTD đã đưa ra nhiều sản phẩm, dịch vụ hiện đại, thân thiện, tiện lợi như QR Code, thanh toán không tiếp xúc, Internet Banking, Mobile Banking, thanh toán tiền điện, nước, dịch vụ công... mang lại trải nghiệm và lợi ích thiết thực cho khách hàng; đồng thời thực hiện nghiêm túc Nghị định số 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 của Chính phủ quy định về TTKDTM và các thông tư hướng dẫn của Thống đốc NHNN (Thông tư số 15/2024/TT/NHNN ngày 28/6/2024 quy định về cung ứng dịch vụ TTKDTM; Thông tư số 17/2024/TT/NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư số 18/2024/TT/NHNN ngày 28/6/2024 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; Thông tư số 40/2024/TT/NHNN ngày 17/7/2024 quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán). Việc triển khai áp dụng sinh trắc học ngân hàng đã nhanh chóng được người dân, các tổ chức và doanh nghiệp trên địa bàn đồng tình ủng hộ. Đến hết tháng 12/2024, tổng số khách hàng cá nhân đã cài đặt sinh trắc học trên địa bàn tỉnh Thái Bình đạt trên 70%; tổng doanh số thanh toán qua ngân hàng đạt 1,85 triệu tỉ đồng, tăng khoảng 11,4% so với năm 2023; trong đó, TTKDTM chiếm khoảng 85% tổng doanh số thanh toán.

Hạ tầng thanh toán ngân hàng được các TCTD quan tâm đầu tư với công nghệ hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả, thông suốt. Tính đến hết năm 2024, các TCTD trên địa bàn đã lắp đặt 215 ATM, 1.290 thiết bị chấp nhận thẻ POS (tăng 08 ATM, 57 POS so với năm 2023), phát hành hàng nghìn mã QR Code, mở trên 1,8 triệu tài khoản và phát hành trên 2,4 triệu thẻ.

Các TCTD trên địa bàn tỉnh Thái Bình thực hiện tốt việc bảo đảm duy trì và kéo dài thời gian hoạt động giao dịch thanh toán trong thời gian quyết toán cuối năm 2024, phục vụ kịp thời, hiệu quả các hoạt động thanh toán trong nền kinh tế, nhất là công tác thu ngân sách địa phương; bên cạnh đó, thực hiện tốt các phương án bảo đảm nhu cầu giao dịch ngân hàng cho người dân, doanh nghiệp, đáp ứng đầy đủ, kịp thời số lượng, cơ cấu mệnh giá tiền mặt ra lưu thông, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025.

Hoạt động kinh doanh vàng, thị trường ngoại tệ ổn định

Năm 2024, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2024 ước đạt 2,3 tỉ USD; doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng đạt 2,15 tỉ USD, tăng 2,3% so với năm 2023; giá trị kiều hối chuyển về tỉnh qua hệ thống ngân hàng ước đạt 57 triệu USD, tăng 2,5% so với năm 2023.

Toàn tỉnh có 02 chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng và 68 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ được cấp phép hoạt động. Khối lượng vàng miếng giao dịch năm 2024 đạt 600 lượng, giá trị khoảng 52 tỉ đồng; khối lượng vàng trang sức mỹ nghệ do các doanh nghiệp sản xuất trong năm đạt 6.000 lượng, giá trị 460 tỉ đồng. Công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã được NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Bình triển khai tích cực với các giải pháp tăng cường và phối hợp chặt chẽ với Cục Quản lý thị trường, Cục Thuế, Công an tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Bình để thực hiện kiểm tra hoạt động kinh doanh vàng đối với 21 doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng trên địa bàn tỉnh; qua đó, đã phát hiện và xử lý đối với 13 doanh nghiệp vi phạm hành chính, chuyển hồ sơ vụ việc đến cơ quan thẩm quyền xử lý theo quy định với tổng số tiền xử phạt 231,5 triệu đồng.

Thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu

Năm 2024, NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Bình đã thực hiện 27 cuộc thanh tra, 14 cuộc kiểm tra đột xuất công tác an toàn kho quỹ và thực hiện giám sát vòng ngoài ATM, 4 cuộc kiểm tra tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng; qua đó, đã kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế của các TCTD trên địa bàn.

Công tác giám sát từ xa tiếp tục được tăng cường, các TCTD kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông..., góp phần bảo đảm an toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; đồng thời, thường xuyên giám sát hoạt động của hệ thống ATM, ngân hàng trực tuyến, việc chấp hành lãi suất huy động, lãi suất cho vay, an toàn kho quỹ. NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo các TCTD trên địa bàn chấp hành nghiêm túc chế độ kiểm tra, kiểm soát, thực hiện kiểm soát kép trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ; tăng cường, gắn kết chặt chẽ công tác kiểm soát nội bộ với công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, theo dõi đôn đốc đơn vị thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra.

Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong thời gian tới

Năm 2025, trên cơ sở bám sát định hướng, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Bình tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn để mở rộng cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh, phấn đấu nguồn vốn huy động tăng khoảng 12%, dư nợ cho vay tăng khoảng 12 - 14% so với năm 2024. Để đạt được mục tiêu đề ra, hệ thống ngân hàng tỉnh Thái Bình đang tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của NHNN về việc rà soát, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy và các định hướng, điều hành hoạt động ngân hàng của NHNN, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD trên địa bàn hướng nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; bảo đảm hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025; nâng cao năng lực quản trị, điều hành; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ; phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng; thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng; phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại; bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán; tăng cường đầu tư, trang bị cơ sở vật chất, hiện đại hóa công nghệ, trang bị hệ thống ATM, POS; phát triển sản phẩm, dịch vụ thanh toán, gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ trả lương qua tài khoản, thanh toán qua thẻ, thanh toán qua mạng và các sản phẩm TTKDTM khác, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ của nền kinh tế; tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra; nâng cao hiệu quả công tác giám sát an toàn vĩ mô và vi mô; tiếp tục giám sát toàn diện hoạt động của các TCTD để kịp thời phát hiện, cảnh báo các rủi ro tiềm ẩn; tiếp tục thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động của ngành Ngân hàng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương điều hành trong mọi hoạt động về tiền tệ và ngân hàng; chủ động, kịp thời thông tin, truyền thông về các cơ chế, chính sách, các vấn đề dư luận quan tâm liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thái Bình, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư đối với ngành Ngân hàng.

Các TCTD trên địa bàn bám sát các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối, hoạt động ngân hàng của Chính phủ, NHNN, Hội sở chính để triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2025; tăng cường huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế thông qua việc phát triển sản phẩm, dịch vụ, đa dạng hóa các loại hình huy động, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng; thực hiện nghiêm các quy định và chỉ đạo của NHNN về lãi suất, phí, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD và thanh khoản hệ thống ngân hàng trên địa bàn; thực hiện các giải pháp tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát và xử lý nợ xấu; triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của ngành Ngân hàng tại Chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm kịp thời, minh bạch, đúng đối tượng. Tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; cắt giảm chi phí hoạt động, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cấp tín dụng, ổn định mặt bằng lãi suất thị trường; chủ động triển khai, tăng cường hoạt động kết nối ngân hàng - doanh nghiệp bằng hình thức phù hợp. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách tín dụng đến các tổ chức, cá nhân trên địa bàn; kịp thời báo cáo các khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng với khách hàng.

Các TCTD triển khai phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ; nâng cao năng lực quản trị, điều hành; phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng; nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, quy định về lãi, phí phải thu; kiểm soát chặt chẽ lãi dự thu đúng quy định; triển khai quyết liệt, đồng bộ có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa việc phát sinh mới nợ xấu; tiếp tục đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu, nợ đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.

Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại; thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng; bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán; tuân thủ, triển khai các quy định của pháp luật, chỉ đạo của Thống đốc NHNN liên quan đến hoạt động thanh toán; tổ chức, triển khai kịp thời, hiệu quả kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng; đẩy mạnh cung ứng dịch vụ TTKDTM trong lĩnh vực công, hành chính công, nhất là các lĩnh vực y tế, giáo dục, chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, thanh toán tiền điện, nước, khu vực nông thôn, thanh toán qua Cổng Dịch vụ công quốc gia; thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới, các quy định về chứng từ, bảo đảm việc cung ứng dịch vụ ngoại hối được thực hiện đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật; chủ động, tăng cường kết nối với các ngành, lĩnh vực để mở rộng hệ sinh thái số; khai thác thông tin căn cước công dân gắn chíp, phục vụ định danh, xác thực khách hàng và làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng; áp dụng các giải pháp công nghệ thanh toán tiên tiến và các tiêu chuẩn quốc tế về an ninh, bảo mật cho hệ thống công nghệ thông tin; tăng cường các giải pháp giám sát, phát hiện, báo cáo, ngăn ngừa kịp thời các giao dịch vượt ngưỡng, giao dịch đáng ngờ, các giao dịch không đúng quy định; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc ngăn ngừa, đấu tranh với tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng; chủ động truyền thông, giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.

Tích cực tham gia triển khai các chương trình giáo dục tài chính để triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và các Đề án của Chính phủ, góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng cho khách hàng nhằm giảm thiểu những rủi ro trong sử dụng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi của người sử dụng; tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức khách hàng trước những rủi ro an ninh mạng, hoạt động gian lận, lừa đảo trên không gian mạng; hướng dẫn khách hàng về các kiến thức, kỹ năng sử dụng dịch vụ ngân hàng an toàn, hợp lý và giải đáp kịp thời các thắc mắc, khiếu nại của khách hàng; chủ động áp dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền để khuyến nghị, cảnh báo kịp thời, hiệu quả tới khách hàng về các phương thức, thủ đoạn gian lận, lừa đảo của tội phạm công nghệ cao./.

Hoàng Nguyên
NHNN

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô