Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến ngành Ngân hàng và mục tiêu ngân hàng số của Vietcombank

Công nghệ & ngân hàng số
Lịch sử nhân loại đã diễn ra ba cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN). Sau thời kỳ phát triển bùng nổ về thương mại và sản xuất toàn cầu (chủ yếu trong cuộc cách mạng về máy tính và tự động hóa - CMCN...
aa

Lịch sử nhân loại đã diễn ra ba cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN). Sau thời kỳ phát triển bùng nổ về thương mại và sản xuất toàn cầu (chủ yếu trong cuộc cách mạng về máy tính và tự động hóa - CMCN lần thứ 3), những động lực tăng trưởng trước đây trở nên kém hiệu quả, dẫn tới mức tăng trưởng của nhiều nền kinh tế thế giới suy giảm, đặc biệt tại các nước kinh tế phát triển hàng đầu, nhân loại bước vào cuộc CMCN tiếp theo, CMCN lần thứ 4 hay còn gọi là cuộc CMCN 4.0 (các cuộc CMCN được mô tả tại Hình 1). Mỗi cuộc CMCN đều mang những nét đặc trưng theo từng giai đoạn; trong đó, bản chất của cuộc CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất với các công nghệ. Với lợi thế về công nghệ, cuộc CMCN 4.0 tác động sâu sắc đối với nền kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.


Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những thành tựu công nghệ nổi bật của cuộc CMCN 4.0 đem lại cơ hội lớn cho ngành Ngân hàng Việt Nam; cụ thể: (i) Tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cấp chất lượng, tính năng, tiện ích… của sản phẩm dịch vụ, qua đó, gia tăng lợi thế cạnh tranh, tiết giảm nhân lực thủ công, giảm chi phí phân phối sản phẩm và nâng cao lợi nhuận; (ii) Gia tăng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế của các ngân hàng; (iii) Mở ra cơ hội cho các ngân hàng tiếp cận và phục vụ số lượng lớn khách hàng, đặc biệt là khách hàng tại vùng sâu, vùng xa; qua đó, góp phần đẩy mạnh triển khai định hướng của Chính phủ về phát triển tài chính toàn diện (financial inclusion).


Hình 1: Bốn cuộc CMCN trong lịch sử


Nguồn: Deloite (2014)

Không thể phủ nhận cơ hội cuộc CMCN 4.0 mang lại cho ngành Ngân hàng là vô cùng to lớn, tuy nhiên, đi kèm theo đó là thách thức không nhỏ mà ngành Ngân hàng cần phải vượt qua, cụ thể:

(i) Khoảng trống chính sách đối với các dịch vụ tài chính được số hóa đòi hỏi cần có sự chung tay phối hợp của các cơ quan quản lý trong việc xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật. Trong khi các định chế tài chính chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, thì công ty Fintech cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính như cho vay ngang hàng (P2P Lending), huy động vốn cộng đồng (Crowdfunding)… chưa có quy định pháp luật điều chỉnh trực tiếp. Nếu không kịp thời hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với các sản phẩm công nghệ tài chính mới, có thể tạo ra một “sân chơi không bình đẳng” giữa công ty Fintech và ngân hàng.

(ii) Thay đổi mô hình kinh doanh, sản phẩm dịch vụ, kênh phân phối sản phẩm và chuẩn bị nguồn lực tài chính lớn để thích ứng với xu hướng ứng dụng công nghệ cao vào sản phẩm, dịch vụ, số hóa các hoạt động ngân hàng. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp, khách hàng có xu hướng chuyển dần từ tương tác trực tiếp với ngân hàng sang tương tác qua thiết bị điện tử, các ứng dụng (applicants), nền tảng số (platforms) từ xa. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có sự dịch chuyển trong mô hình kinh doanh, tạo ra sự nhất quán trong mô hình quản trị, kế hoạch hành động chuyển đổi sang ngân hàng số và phương thức triển khai trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nguồn lực (tài chính, nhân lực…) và rủi ro tiềm tàng trong quá trình chuyển đổi.

(iii) Rủi ro về bảo mật thông tin, an ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng: Xu hướng tội phạm công nghệ đang chuyển dần từ tấn công cơ học sang khai thác các lỗ hổng về công nghệ và người dùng. Do đó, việc ứng dụng các thành tựu từ cuộc CMCN 4.0 tạo áp lực không nhỏ lên hạ tầng an ninh mạng của ngân hàng.

(iv) Năng lực và chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ về trình độ nghiệp vụ ngân hàng mà còn là kiến thức, kỹ năng về vận hành và làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm chủ công nghệ mới. Thêm vào đó, áp lực trong việc giữ nguồn nhân lực chất lượng cao gắn bó lâu dài với tổ chức trước làn sóng dịch chuyển nguồn nhân lực tài chính ngân hàng chất lượng cao đang ngày một gia tăng.

(v) Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cuộc đua về công nghệ và sự xuất hiện của các công ty Fintech: Số lượng công ty Fintech tăng nhanh và sức ép cạnh tranh của công ty Fintech đối với hoạt động ngân hàng truyền thống cũng gia tăng. Điều này tạo ra áp lực vô hình và hữu hình lên hệ thống ngân hàng, đòi hỏi ngân hàng phải có chiến lược phát triển phù hợp. Trong bối cảnh đó, mối tương quan giữa công ty Fintech và ngân hàng trong thời gian tới đây có thể diễn ra theo ba (3) xu hướng chủ đạo: (1) Ngân hàng cạnh tranh với công ty Fintech; (2) Ngân hàng hợp tác với công ty Fintech; (3) Một số dịch vụ của ngân hàng bị thay thế bởi công ty Fintech.

(vi) Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu định danh toàn quốc (KYC). Hành lang pháp lý cho kinh tế số chưa đủ và đồng bộ, hạ tầng công nghệ thông tin còn tồn tại những bất cập nhất định, mức độ nhận thức, hiểu biết về dịch vụ tài chính, về ngân hàng số của người dân và doanh nghiệp còn hạn chế.

Như vậy, cuộc CMCN 4.0 tác động lên hệ thống tài chính ngân hàng một cách toàn diện, không chỉ ở cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản phẩm, dịch vụ mà trong cả cách thức quản trị ngân hàng, mối quan hệ tương tác với khách hàng và với đối thủ cạnh tranh. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhiều ngân hàng ở Việt Nam đã và đang nghiên cứu và thực hiện chuyển dịch mô hình ngân hàng truyền thống phụ thuộc vào mạng lưới chi nhánh sang mô hình ngân hàng số.

Nhận thức sâu sắc về tác động của cuộc CMCN 4.0, Đảng và Nhà nước đã chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn mang tầm chiến lược đối với việc phát triển khoa học, công nghệ để tạo tiền đề nâng cao khả năng thích ứng và triển khai thành tựu cuộc CMCN 4.0 tại Việt Nam. Tại Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đảng thể hiện rõ quan điểm và đưa ra định hướng phát triển chính sách khoa học và công nghệ. Nhằm nắm bắt và tận dụng các cơ hội của cuộc CMCN 4.0 để phát triển bứt phá, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Đây là nghị quyết toàn diện, tổng thể đầu tiên của Đảng về chủ trương, chính sách của Việt Nam tham gia cuộc CMCN 4.0; là cơ sở lý luận quan trọng để triển khai thực hiện cuộc CMCN 4.0 và chuyển đổi số tại Việt Nam.

Để triển khai, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, Chính phủ cũng đã ban hành văn bản, quy định cụ thể như Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”; chỉ thị về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. Đối với ngành Ngân hàng, ngày 08/8/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo những mục tiêu ngành Ngân hàng cần đạt được, đặc biệt là phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế. Chính phủ cũng đã giao nhiệm vụ cho NHNN trong việc thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới (dạng sandbox); cụ thể: (i) Nghiên cứu, xây dựng Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech trong hoạt động ngân hàng; (ii) Nghiên cứu cơ chế thí điểm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng. Trên cơ sở đó, NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch ứng dụng Công nghệ thông tin của các TCTD giai đoạn 2017 - 2020 với các mục tiêu, lộ trình và giải pháp cụ thể nhằm định hướng cho các TCTD trong việc đầu tư và hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ ứng dụng công nghệ tiên tiến từ cuộc CMCN 4.0; Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025 cũng như Chương trình hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Những chủ trương, chính sách lớn nêu trên khẳng định sự chủ động, nhạy bén trong nhận thức của Đảng, Chính phủ, NHNN về những cơ hội to lớn mà cuộc CMCN 4.0 mở ra cho sự phát triển kinh tế Việt Nam và ngành Tài chính - Ngân hàng Việt Nam. Để triển khai Nghị quyết của Đảng, nhiều kế hoạch, chương trình hành động được ban hành một cách chủ động trong thời gian gần đây của Chính phủ và NHNN đã mang lại những kết quả tích cực, từng bước làm thay đổi nhận thức của các cá nhân, doanh nghiệp nói chung và TCTD nói riêng về những lợi ích, cơ hội, cũng như những thách thức, rủi ro của cuộc CMCN 4.0.

Trước tiềm năng phát triển của việc ứng dụng công nghệ số, cùng với nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ có yếu tố công nghệ ngày càng cao của khách hàng, đặc biệt là thế hệ trẻ ưa chuộng công nghệ, việc phát triển ngân hàng số là một xu thế tất yếu liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng trong môi trường cạnh tranh sâu sắc hiện nay. Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ đạo Chính phủ, NHNN, đồng thời bám sát Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Vietcombank đã xây dựng Chiến lược phát triển Vietcombank đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; trong đó cụ thể hóa quan điểm và nhận thức về phát triển ngân hàng số trong xu thế cuộc CMCN 4.0. Vietcombank đặt mục tiêu trở thành ngân hàng đứng đầu về ngân hàng số, xác định phát triển ngân hàng số là nhiệm vụ then chốt trong chiến lược phát triển của Vietcombank trong giai đoạn phát triển mới. Hiện tại, Vietcombank đã triển khai một số đầu mục công việc sau:

Về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số

Vietcombank tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tra cứu số dư… trên các ứng dụng hoặc các dịch vụ mở tài khoản, gửi tiền gửi tiết kiệm trên kênh ngân hàng điện tử (Internet Banking). Các sản phẩm, dịch vụ số của Vietcombank đã mang đến nhiều tiện ích cho khách hàng: Tháng 3/2016, Vietcombank ra mắt không gian giao dịch công nghệ số Vietcombank Digital Lab. Vietcombank Digital Lab nằm trong tổng thể dự án xây dựng mô hình chi nhánh hiện đại (Smart Branch) theo chiến lược phát triển ngân hàng số của Vietcombank. Tháng 8/2018, Vietcombank phối hợp cùng VNPAY cho ra mắt VCBPAY - ứng dụng chuyển tiền nhanh, thanh toán tiện lợi dành cho nhóm khách hàng trẻ, năng động. Sản phẩm nằm trong hệ sinh thái ngân hàng trên điện thoại di động (Mobile Banking) của Vietcombank. (Đồ thị 1, 2)

Kết quả kinh doanh dịch vụ ngân hàng điện tử (DVNHĐT) tăng trưởng tốt qua các năm về quy mô khách hàng và quy mô giao dịch. Tốc độ tăng trưởng khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức giai đoạn 2015 - 2018 tương ứng đạt trung bình 39%/năm và 36%/năm. Xét về quy mô giao dịch, số lượng giao dịch của khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức tăng trung bình 86%/năm và 21%/năm; quy mô giá trị giao dịch DVNHĐT của khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức tăng trung bình 77%/năm và 18%/năm. DVNHĐT của Vietcombank chiếm tỷ trọng khoảng 49% số lượng giao dịch và 12% giá trị giao dịch toàn thị trường.

Về nguồn nhân lực phát triển ngân hàng số

Thời gian qua, Vietcombank tập trung đổi mới công tác quản trị nguồn nhân lực với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần tạo ra thành công trong hoạt động kinh doanh cũng như trong công tác quản trị điều hành. Quy mô, năng suất và chất lượng lao động Vietcombank không ngừng tăng lên.

Về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng số

Đặc thù hoạt động ngân hàng số dựa vào hệ thống công nghệ trực tuyến, tiềm ẩn rủi ro từ lỗi hệ thống, tội phạm công nghệ, nên thói quen người sử dụng, yếu tố an toàn và kiểm soát rủi ro luôn được Vietcombank đặt lên hàng đầu; cụ thể: (i) thường xuyên cập nhật, đánh giá rủi ro định kỳ về sản phẩm dịch vụ để chủ động xây dựng, cập nhật các quy định nội bộ, hệ thống kiểm soát rủi ro chặt chẽ; (ii) chuẩn hóa, tăng cường công tác quản trị rủi ro trong hợp tác với đối tác như xây dựng khung quản trị rủi ro đối tác kinh doanh, xây dựng quy trình giám sát xử lý sự cố dịch vụ hợp tác đối tác thứ ba.

Về cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ

Vietcombank đã ban hành quy chế an toàn thông tin và triển khai các giải pháp xuyên suốt từ lớp mạng tới lớp ứng dụng, cùng các hệ thống giúp đảm bảo an ninh, an toàn và hoạt động liên tục cho các hệ thống CNTT; Chuẩn hóa hạ tầng CNTT theo chuẩn quốc tế và tối ưu hóa hiệu quả đầu tư; Cải tạo và nâng cấp trung tâm dữ liệu chính và trung tâm dữ liệu dự phòng; Trang bị và quản lý tài nguyên hạ tầng trên nền tảng ảo với hầu hết các hệ thống ứng dụng giúp tiết kiệm chi phí đầu tư và việc vận hành và bảo trì hệ thống đơn giản hơn; Hoàn thành triển khai trục tích hợp giúp tăng khả năng tích hợp và tự động hóa trong trao đổi thông tin giữa các hệ thống.


Về mô hình hoạt động

Từ tháng 9/2016, Vietcombank đã thành lập một bộ phận chuyên trách thực hiện vai trò đầu mối xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý chính sách, quy định, sản phẩm, đối tác và quản lý hiệu quả kinh doanh dịch vụ ngân hàng điện tử chung của Vietcombank.

Vietcombank đã triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến là hình thức sơ khai ban đầu của ngân hàng số. Các dịch vụ trực tuyến của Vietcombank hiện cung cấp các dịch vụ cơ bản như tra cứu số dư, chuyển tiền, gửi tiết kiệm online trong khi cùng với các dịch vụ trực tuyến như vậy có thể cung cấp được các dịch vụ khác như cho vay trực tuyến, bảo lãnh vay trực tuyến, mở thẻ trực tuyến.

Về đối tác hợp tác trong việc phát triển ngân hàng số

Cuộc CMCN 4.0 ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt kinh tế xã hội, tác động tới mọi ngành nghề, mọi quốc gia, nhiều ngân hàng trên thế giới đều nhìn nhận công ty Fintech là cánh tay nối dài của ngân hàng, là đối tác giúp ngân hàng có thể đưa ra giải pháp tiên tiến hơn cho sản phẩm và dịch vụ của mình. Trong bối cảnh đó, Vietcombank liên tục mở rộng hợp tác với các đơn vị cung ứng dịch vụ, các công ty Fintech, trung gian thanh toán (Vnpay, Momo…) trên nhiều lĩnh vực như y tế, hành chính công, giao thông, điện, nước, học phí… theo đúng định hướng của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.

Những bước đi trên đây cùng những dự án trong thời gian tới sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Ngân hàng đứng đầu về chuyển đổi ngân hàng số”, Chiến lược phát triển Vietcombank đến năm 2025 và Tầm nhìn đến năm 2030: phát triển trở thành tập đoàn tài chính đa năng, một trong 50 ngân hàng lớn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một trong 200 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn nhất thế giới, một trong 700 doanh nghiệp niêm yết lớn nhất toàn cầu và đóng góp lớn vào sự thịnh vượng của Việt Nam.

TS. Nghiêm Xuân Thành

Nguồn: TCNH số 3/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Bài viết phân tích vai trò trọng yếu của AI trong chuyển đổi số ngành Ngân hàng, giúp tối ưu vận hành, quản lý rủi ro và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những thách thức về bảo mật dữ liệu và đề xuất định hướng phát triển bền vững
Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bài viết này phân tích thực trạng ứng dụng Blockchain trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam và gợi ý định hướng phát triển trong tương lai.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc