Quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Đức và một số khuyến nghị

Quốc tế
Khi thế giới ngày càng trở nên số hóa và kết nối, cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày một gia tăng, tạo động lực cho các ngân hàng thích ứng và thực hiện chuyển đổi số. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối... đang hỗ trợ và đẩy nhanh tốc độ của quá trình chuyển đổi số, giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng.
aa

Tóm tắt: Khi thế giới ngày càng trở nên số hóa và kết nối, cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày một gia tăng, tạo động lực cho các ngân hàng thích ứng và thực hiện chuyển đổi số. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối... đang hỗ trợ và đẩy nhanh tốc độ của quá trình chuyển đổi số, giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng. Tuy nhiên, sự phổ biến ngày càng nhanh của công nghệ số cũng mang tới những thách thức và mối đe dọa mới, trong đó các ngân hàng đang phải đối mặt với một loại rủi ro mới: Rủi ro số (Digital risk). Bài toán đặt ra cho các ngân hàng là làm thế nào để quản trị tốt rủi ro số, đảm bảo thông tin, dữ liệu của khách hàng luôn được bảo vệ trước những cuộc tấn công từ bên ngoài cũng như vấn đề an ninh, an toàn, bảo mật của ngân hàng.


Từ khóa: Chuyển đổi số, rủi ro số, quản trị rủi ro, ngân hàng thương mại.

DIGITAL RISK MANAGEMENT IN COMMERCIAL BANKS: BUNDESBANK EXPERIENCE AND RECOMMENDATIONS

Abstract: As the world becomes increasingly digitized and interconnected, there is a growing competition in providing banking and financial services, motivating banks to adapt and undertake digital transformations. Financial technologies, such as Artificial Intelligence, Cloud computing, Big data, Blockchain, etc., support and accelerate digital transformation, enabling banks to enhance their performance and offer a wide range of products and services to meet the increasing demands of customers. However, the rapid expansion of digital technology also brings challenges and threats, among which banks are now facing a new type of risk: Digital risk. The question posed to banks is how to effectively manage digital risks, ensuring that customer information and data are protected from cyberattacks as well as addressing the security and safety concerns.

Keywords: Digital transformation, digital risk, risk management, commercial bank.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, ngân hàng, việc phát triển hoạt động kinh doanh và các sản phẩm, dịch vụ số trở thành yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, chuyển đổi số là định hướng không thể thiếu trong chiến lược của các ngân hàng, bởi gần như tất cả các hoạt động của ngân hàng hiện nay đều gắn liền với chuyển đổi số. Trong khi chuyển đổi số đang đem lại nhiều cơ hội kinh doanh, nó cũng mở ra cánh cửa cho các mối đe dọa và rủi ro mới. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, không chỉ lượng dữ liệu tăng lên mà giá trị tương ứng của tài sản số cũng gia tăng. Thông tin nhạy cảm của khách hàng, tài sản sở hữu trí tuệ và thậm chí việc kiểm soát các máy móc chủ chốt đều ngày càng xuất hiện nhiều dưới dạng số hóa và điện tử. Điều này khiến các ngân hàng trở thành mục tiêu của các hacker chuyên nghiệp và những cuộc tấn công ảnh hưởng đến những tài sản này có khả năng tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chuyển đổi số có xu hướng thay đổi tính chất của các rủi ro hiện tại và tạo ra một loại rủi ro mới, đó là rủi ro số.

1. Tổng quan về rủi ro số trong ngân hàng

Rủi ro số là những tổn thất tiềm tàng xuất phát từ quá trình chuyển đổi số, ảnh hưởng tới việc đạt được các mục tiêu kinh doanh của một tổ chức (Kost, 2022). Rủi ro số là một loại rủi ro rất phức tạp, phụ thuộc vào chiến lược và quy trình triển khai các ứng dụng công nghệ của tổ chức. Rủi ro số có thể lan tỏa và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong hoạt động kinh doanh, do đó cần áp dụng các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát rủi ro này (Xie, 2020). Trong khuôn khổ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, rủi ro số có một số đặc điểm sau:

- Rủi ro số đang là vấn đề mang tính cấp thiết trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Rủi ro số phát sinh khi một ngân hàng giới thiệu một sản phẩm, dịch vụ, quy trình kinh doanh, phụ thuộc vào công nghệ số, bao gồm cả những gì được cung cấp cho ngân hàng bởi bên thứ ba. Tuy nhiên, các quy định liên quan đến đổi mới số này lại thường có độ trễ, có thể được thực hiện sau nhiều năm hoặc thậm chí cả thập kỉ.

- Phạm vi tác động của rủi ro số thường rộng và tốc độ gia tăng ảnh hưởng nhanh hơn so với rủi ro thông thường, trong trường hợp không có tự động hóa quy trình, các giao dịch và quyết định được đưa ra theo cách thủ công. Thực tế cho thấy những sai sót, gian lận xảy ra trong các quy trình thủ công thường có tính rời rạc. Trong khi đó, với tự động hóa quy trình, các giao dịch được xử lí tự động hóa và những sai sót và gian lận cũng vì thế có thể xảy ra trong quy trình tự động hóa. Nếu sai sót và gian lận xảy ra có khả năng lan tỏa đến tất cả các giao dịch trong quy trình, từ đó trầm trọng hóa tác động của rủi ro tích hợp. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của một sự cố hoặc tổn thất có thể xảy ra nhanh hơn từ một quy trình tự động hóa so với quy trình thủ công. Do rủi ro số hóa có thể xuất hiện và lan tỏa nhanh chóng như vậy, các công cụ kiểm soát rủi ro truyền thống không còn hiệu quả nữa.

- Tự động hóa quy trình đòi hỏi cả tài sản công nghệ số và nguồn nhân lực có đủ hiểu biết kĩ thuật để triển khai và vận hành công nghệ. Do vậy, có thể có nhiều nguyên nhân dẫn tới rủi ro số, bao gồm:

+ Các ngân hàng không đủ nguồn lực để mua sắm, triển khai và duy trì công nghệ thường thực hiện thuê ngoài (outsource) các hoạt động này thông qua bên thứ ba. Tuy nhiên, thông thường họ không thể chuyển giao toàn bộ rủi ro cho các đối tác này, điều này dẫn tới rủi ro số có thể phát sinh.

+ Xác định, quản lí vai trò và quyền truy cập có thể gặp khó khăn. Việc truy cập trái phép thường dẫn đến gian lận và tổn thất tài chính, vi phạm quyền riêng tư, vi phạm quy định, sai sót trong báo cáo tài chính và tổn thất uy tín.

+ Công nghệ trong giao tiếp với khách hàng và đối tác thường dễ bị xâm nhập và tấn công. Thực tế cho thấy các cuộc tấn công mạng từ bên ngoài thường khó phát hiện và không có phương án phòng, chống.

+ Các quy trình được liên kết thông qua các trung tâm công nghệ chung, chẳng hạn như máy chủ chung hoặc bộ định tuyến viễn thông dễ bị tấn công. Cuộc tấn công vào một công nghệ có thể lan rộng đến những công nghệ liên kết khác. Trong khi đó, các ngân hàng có thể không nắm rõ tất cả các mối liên kết công nghệ mà họ sở hữu. Điều này dẫn tới việc xác định rủi ro liên quan đến những mối liên hệ này và việc phân bổ nguồn lực hợp lí để quản lí rủi ro trở nên khó khăn. Những mối liên kết công nghệ này cũng khiến cho ngân hàng dễ bị tấn công lừa đảo hợp kênh, trong đó kẻ tấn công đạt được mục tiêu gian lận cuối cùng thông qua việc thao túng nhiều kênh truyền thông liên lạc khác nhau.

- Gián đoạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có tác động lớn hơn. Sự liên kết của các công nghệ ngân hàng làm cho sự gián đoạn trong hoạt động kinh doanh có tác động lớn hơn đối với các ngân hàng. Ví dụ như sự cố mất điện cho bộ xử lí trung tâm, kho dữ liệu công nghệ thông tin tập trung bị xâm nhập hay một hành vi lừa đảo tống tiền đều có khả năng làm ngưng hoạt động của toàn bộ ngân hàng. Thời gian gián đoạn và chi phí phát sinh cho ngân hàng và khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng chuẩn bị tốt cho các tình huống gián đoạn kinh doanh.

2. Những vấn đề đặt ra trong quản trị rủi ro số tại các ngân hàng hiện nay

Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Tài chính quốc tế (IIF) và Công ty kiểm toán E&Y tiến hành tại 33 nước với sự tham gia của 88 tổ chức tài chính cho thấy, trong 10 nhóm rủi ro lớn nhất mà ngành Ngân hàng phải đối mặt trong 5 năm tới, có tới 7 nhóm rủi ro liên quan đến chuyển đổi số. Báo cáo của RSA (2019) đã chỉ ra 7 lĩnh vực của quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại hiện nay, bao gồm: Rủi ro tấn công mạng, rủi ro quản lí dữ liệu và quyền riêng tư, rủi ro tự động hóa quy trình, rủi ro số có liên quan đến con người, rủi ro liên quan đến tính bền vững của hoạt động kinh doanh, rủi ro liên quan đến điện toán đám mây, rủi ro trách nhiệm của bên thứ ba.

Biểu đồ 1: Mức độ dễ tổn thương của an ninh mạng trên thế giới

Nguồn: National Vulnerability Database (2023)


Thứ nhất, rủi ro tấn công mạng. Đây đang là rủi ro được các ngân hàng quan tâm nhiều nhất. Dữ liệu của National Vulnerability Database cho thấy, mức độ dễ tổn thương an ninh mạng tại các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu không ngừng gia tăng qua các năm (Biểu đồ 1). Số lượng vụ việc xâm nhập trái phép trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng trên phạm vi toàn cầu cũng có xu hướng tăng (Biểu đồ 2). Hậu quả của các vụ việc này có thể dẫn tới việc các tổ chức tài chính, ngân hàng bị mất một lượng lớn thông tin khách hàng, thiệt hại tài chính từ việc mất cắp tài sản của khách hàng và ngân hàng, gián đoạn kinh doanh và hủy hoại danh tiếng của ngân hàng.

Biểu đồ 2: Số lượng vụ việc tấn công mạng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trên phạm vi toàn cầu

Nguồn: Statista (2023)


Thứ hai, rủi ro quản lí dữ liệu và bảo mật quyền riêng tư. Mối quan ngại này xuất phát từ nguy cơ tấn công mạng bởi hậu quả của những cuộc tấn công này thường dẫn đến việc quyền riêng tư và thông tin khách hàng bị xâm phạm. Trong khi đó, các quy định về bảo mật riêng tư và quy định của cơ quan quản lí yêu cầu các ngân hàng giữ bảo mật thông tin khách hàng. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải kiểm soát các hệ thống và kho dữ liệu để xác định thông tin cá nhân, đánh giá rủi ro về bảo mật riêng tư dựa trên phân loại, số lượng thông tin được xử lí và thiết lập, duy trì các biện pháp kĩ thuật và tổ chức phù hợp với các rủi ro đó.

Thứ ba, rủi ro tự động hóa quy trình. Rủi ro này phát sinh khi một sản phẩm, dịch vụ, hoạt động, quy trình, hệ thống mới hoặc có sự thay đổi liên quan đến công nghệ được giới thiệu, hay khi một hoạt động liên quan đến công nghệ được ngân hàng giao cho một bên thứ ba. Nói cách khác, rủi ro này có thể được hiểu là rủi ro hoạt động liên quan đến tự động hóa quy trình. Hậu quả của rủi ro tự động hóa quy trình thường nghiêm trọng, gây thiệt hại cả về vốn và uy tín của ngân hàng, thậm chí có thể dẫn tới sụp đổ.

Thứ tư, rủi ro số có liên quan đến con người. Quá trình toàn cầu hóa lực lượng lao động, sự thay đổi trong cơ cấu dân số và đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng về công nghệ đã làm đội ngũ lao động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ngày càng đa dạng và phân tán, gia tăng đáng kể rủi ro số liên quan đến đội ngũ này. Để quản lí rủi ro này một cách hiệu quả, các ngân hàng phải kiểm soát và chắc chắn về những cá nhân nào đang truy cập vào hệ thống của họ, họ có quyền truy cập vào nội dung gì và đang thực hiện điều gì với quyền truy cập đó.

Thứ năm, rủi ro liên quan đến tính bền vững của hoạt động kinh doanh. Khả năng đứng vững của ngân hàng trước các vụ tấn công mạng trong khi vẫn duy trì sự liên tục của hoạt động kinh doanh và bảo vệ con người, tài sản và giá trị thương hiệu tổng thể cũng là một nội dung quan trọng trong quản trị rủi ro số. Điều này không chỉ là việc khôi phục hoạt động kinh doanh khi có gián đoạn xảy ra mà còn bao gồm kế hoạch phòng ngừa và đánh giá rủi ro, các biện pháp chống chịu được tích hợp vào mô hình kinh doanh của ngân hàng và các chiến lược để giảm thiểu tác động của những sự cố trong tương lai.

Thứ sáu, rủi ro liên quan đến điện toán đám mây. Báo cáo của Accenture (2018) cho thấy 46% trong số các ngân hàng được khảo sát đã triển khai các quy trình tự động hóa liên quan đến điện toán đám mây. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng điện toán đám mây trong hoạt động ngân hàng cũng dẫn tới các nguy cơ về an ninh và rủi ro. Các ứng dụng và dịch vụ điện toán đám mây được tăng cường cũng đồng nghĩa với nhu cầu truy cập tăng cao từ nhiều thiết bị và nhiều địa điểm khác nhau. Điều này dẫn tới khó khăn trong việc bao quát cũng như phát hiện và ứng phó với các mối đe dọa một cách chủ động. Bên cạnh đó, do điện toán đám mây thường được ứng dụng ở nhiều đơn vị chức năng khác nhau trong ngân hàng, các rủi ro liên quan đến điện toán đám mây không được xác định, đánh giá, xử lí hoặc giám sát một cách toàn diện hoặc nhất quán.

Thứ bảy, rủi ro từ sự phụ thuộc vào sản phẩm, dịch vụ của bên thứ ba. Hiện nay, rất nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự phát triển và duy trì các sản phẩm, dịch vụ số và các hệ thống hỗ trợ các sản phẩm, dịch vụ đó. Trong trường hợp này, ngân hàng phải phụ thuộc vào bên thứ ba thông qua các thỏa thuận thuê ngoài, qua đó phát sinh rủi ro số liên quan đến các đối tác này.

3. Kinh nghiệm giám sát, quản lí rủi ro số trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại Đức

Việc quản trị rủi ro số rõ ràng không thể chỉ tập trung vào yếu tố công nghệ mà đòi hỏi sự kết hợp giữa yếu tố con người với các biện pháp tổ chức và kĩ thuật. Ngoài ra, các quy trình, quy định được xây dựng cẩn thận và triển khai một cách hiệu quả cũng là những yếu tố dẫn tới thành công trong việc quản lí các rủi ro số. Đức là một trong những quốc gia đi đầu trong chuyển đổi số, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Bên cạnh đó, quản lí rủi ro số là nội dung đã được các nhà quản lí, điều hành đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây.

Ngân hàng Trung ương Đức và Cơ quan Giám sát Tài chính Liên bang (BaFin) đã phối hợp chặt chẽ trong việc ban hành các văn bản pháp lí có liên quan đến quản trị rủi ro số. Thông tư về “Yêu cầu tối thiểu về Quản lí rủi ro” (MaRisk) và “Yêu cầu giám sát về công nghệ thông tin trong các tổ chức tài chính” (Bankaufsichtliche Anforderungen an die IT - BAIT) thể hiện một cách chi tiết kì vọng của Luật Ngân hàng Đức liên quan đến các rủi ro về công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng. Tính thực tiễn của các thông tư này rất cao bởi chúng được xây dựng dựa trên kinh nghiệm thực tiễn thu được từ kết quả thanh tra, giám sát tại chỗ, ý kiến của hội đồng chuyên gia và khảo sát công chúng. Những yêu cầu giám sát này vừa được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc nhất định và vừa trao quyền cho các tổ chức tự quyết định về các công nghệ hoặc phương pháp mà họ muốn sử dụng. (Bảng 1)

Bảng 1: Những yêu cầu về công nghệ thông tin tại các ngân hàng thương mại của Ngân hàng Trung ương Đức

Nguồn: Deutsche Bundesbank (2021)

Ngân hàng Trung ương Đức và BaFin giám sát khoảng 1.650 tổ chức tín dụng tại Đức. Nền tảng của hoạt động giám sát này là quy trình xem xét và đánh giá giám sát (SREP). Trong khuôn khổ quy trình, bên cạnh các rủi ro tài chính, các rủi ro phi tài chính bao gồm cả rủi ro kĩ thuật số cũng được xem xét, đánh giá. Thông tin cần thiết được thu thập bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi cấu trúc, trên cơ sở đó cho phép Ngân hàng Trung ương Đức thực hiện đánh giá giám sát về mối đe dọa số tiềm tàng đối với một tổ chức và cách mà rủi ro này được xử lí trong hệ thống quản lí rủi ro nội bộ của tổ chức. Bên cạnh đó, các cuộc thanh tra trực tiếp tại các tổ chức tín dụng cung cấp cho Ngân hàng Trung ương Đức cái nhìn sâu sắc về hoạt động kinh doanh của các tổ chức, đặc biệt cách thức quản lí rủi ro của họ. Nội dung thanh tra được thiết kế để đánh giá tính phù hợp của quản lí rủi ro, đặc biệt là rủi ro số, dựa trên tình hình cụ thể của mỗi tổ chức. Trong thập kỉ vừa qua, các cuộc thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Trung ương Đức đối với các tổ chức tín dụng và nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin của họ đã ngày càng tập trung vào các khía cạnh liên quan đến công nghệ thông tin, góp phần tạo ra những cải tiến liên tục trong các quy trình quản lí rủi ro. Kết quả của các cuộc thanh tra thường chỉ ra các yếu điểm cơ bản, vùng rủi ro và những yếu tố cần cải thiện liên quan đến việc giải quyết rủi ro số. Kể từ năm 2010, Ngân hàng Trung ương Đức đã tiến hành hơn 2.000 cuộc kiểm tra trực tiếp và phát hiện ra sự thiếu sót trong quản lí rủi ro của gần một nửa số cuộc kiểm tra. Khoảng 15% trong số những phát hiện này liên quan đến vấn đề công nghệ thông tin, chủ yếu ở các lĩnh vực quản lí rủi ro thông tin, quản lí thuê ngoài dịch vụ công nghệ thông tin và quản lí an ninh thông tin.

4. Một số khuyến nghị

Chuyển đổi số đã, đang và sẽ tiếp tục định hình việc phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ thay đổi công nghệ được dự báo tiếp tục diễn ra nhanh, đặc biệt là trong ngành Ngân hàng. Tại Việt Nam, hơn 95% ngân hàng thương mại đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số (Nguyễn Tú Anh, 2022). Các ngân hàng đều đang thúc đẩy đầu tư, ứng dụng các công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, máy học, dữ liệu lớn... để tự động hóa quy trình nghiệp vụ, phân tích hành vi, thói quen tiêu dùng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng có mặt trái là sự gia tăng các rủi ro tiềm tàng, đặc biệt là các rủi ro có liên quan đến công nghệ thông tin. Cho tới nay, tại Việt Nam chưa có một quy định cụ thể về quản lí rủi ro số tại các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa thực hiện phân loại và đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về rủi ro số, cũng như có các biện pháp phòng ngừa và quản trị rủi ro này một cách phù hợp. Để quản lí và kiểm soát rủi ro số hiệu quả, một số vấn đề cần lưu ý trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất, cần xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lí về công nghệ thông tin tại ngân hàng thương mại, trong đó các quy định về rủi ro số nên xây dựng theo hướng dựa trên khung quản trị rủi ro với những nguyên tắc nhất định, đồng thời vẫn tạo điều kiện để các tổ chức tự chủ trong việc ứng dụng các tiến bộ công nghệ. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế và kế hoạch thanh tra, giám sát về hoạt động công nghệ thông tin tại các ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương Đức cho thấy hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát trực tiếp, do đó cần đặc biệt chú trọng xây dựng cách thức, cơ chế và đẩy mạnh hình thức giám sát này.

Thứ hai, các ngân hàng cần chú trọng quản lí rủi ro số phát sinh từ các bên thứ ba. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, xu hướng các ngân hàng phụ thuộc vào công nghệ và dịch vụ của bên thứ ba là không tránh khỏi. Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ quản trị rủi ro số của Ngân hàng Trung ương Đức cho thấy, rủi ro liên quan đến thuê ngoài dịch vụ thông tin là một trong những rủi ro quan trọng nhưng chưa được các ngân hàng thương mại quan tâm, kiểm soát chặt chẽ. Do đó, các ngân hàng cần đặc biệt chú trọng, nhận diện và quản lí rủi ro số có liên quan đến các thỏa thuận thuê ngoài. Ngoài ra, đối với các cơ quan quản lí, cần ban hành danh mục các tiêu chuẩn quốc tế đối với nhà cung cấp, đối tác liên kết công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong quá trình lựa chọn đối tác, giảm thiểu rủi ro từ bên thứ ba.

Thứ ba, việc truy cập giao diện người dùng và các công nghệ quan trọng của ngân hàng phải được hạn chế, chỉ áp dụng các cá nhân được ủy quyền và dựa trên vai trò và trách nhiệm của họ. Những hạn chế này phải được thực hiện để đảm bảo quá trình quản trị và kiểm soát nội bộ, ngăn ngừa lỗi không chủ ý, ngăn chặn gian lận và các hoạt động xâm hại khác.

Thứ tư, các ngân hàng cần có chiến lược chuyển đổi số và kế hoạch thực thi chiến lược đó một cách đồng bộ trong cả hệ thống bao gồm hệ thống thu thập dữ liệu, hệ thống máy học, trí tuệ nhân tạo, quản lí nhân sự, hệ thống nhận biết khách hàng, hệ thống khuyến khích trải nghiệm người dùng. Sự thiếu đồng bộ không chỉ làm giảm hiệu quả của quá trình chuyển đổi số, mà còn làm cho rủi ro số tăng cao.

Thứ năm, các ngân hàng cần đổi mới tư duy, chiến lược quản trị rủi ro theo hướng đẩy mạnh số hóa, ứng dụng công nghệ trong quản trị rủi ro. Cần mạnh dạn chuyển từ các nhóm thử nghiệm trên nền tảng đám mây, phân tích, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo sang một chiến lược quản trị rủi ro số mang tính cốt lõi, chủ động, phục vụ cho sự phát triển và ổn định của ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:

1. Accenture (2018). Cloud and Clear, Accenture Cloud Readiness Report. https://www.accenture.com/_acnmedia/PDF-85/Accenture-Technology-Advisory-Cloud-Readiness-Banking.pdf#zoom=50.

2. Deutsche Bundesbank (2021). “Digital risks in the banking sector”. Monthly Report.

3. IIF and E&Y (2021). “Resilient banking: capturing opportunities and managing risks over the long term”. 11th annual EY/IIF Global Bank Risk Management Survey.

4. Kost Edward (2022, November 16). “How to guide: Digital risk management in 2022”. UpGuard. https://www.upguard.com/blog/digital-risk-management17.

5. Nguyễn Tú Anh (2022). “Quản trị rủi ro trong thời kỳ chuyển đổi số”. Đầu tư chứng khoán.

6. RSA (2019). “Digital risk management in banking”. https://static1.squarespace.com/static/

7. Xie Xiaofei (2020). “Internal audit strategies for dealing with digital risk in the digital economy”. 2nd International Scientific and Practical Conference on Digital Economy (ISCDE 2020). Atlantis Press.


TS. Bùi Huy Trung
Học viện Ngân hàng


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Đan Mạch là một trong những quốc gia đi đầu trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ các hoạt động dựa trên năng lượng hóa thạch sang các công nghệ năng lượng tái tạo, giao thông bền vững và các quy trình sản xuất xanh. Học hỏi từ kinh nghiệm của Đan Mạch sẽ là một nền tảng quý giá, giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn về một nền kinh tế xanh, công bằng và phát triển bền vững.
Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Viễn cảnh về làn sóng thứ hai của xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc được dự báo trong năm 2025, không chỉ là một sự kiện kinh tế đơn lẻ mà là một yếu tố cấu trúc định hình lại bối cảnh hoạt động của ngân hàng toàn cầu. Bài viết xác định và phân tích sâu các cơ chế truyền dẫn quan trọng, bao gồm biến động thị trường tài chính, gián đoạn chuỗi cung ứng, sự chuyển hướng dòng chảy thương mại, biến động tiền tệ và rủi ro ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thành công của ngành Ngân hàng trong việc duy trì sự ổn định và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh xung đột thương mại leo thang phụ thuộc vào khả năng kết hợp hài hòa giữa các biện pháp ứng phó ngắn hạn và điều chỉnh chiến lược dài hạn.
Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, mô hình kinh tế truyền thống “tuyến tính” - khai thác, sản xuất, tiêu thụ và loại bỏ đang bộc lộ nhiều hạn chế. Các thách thức như khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học đòi hỏi các quốc gia phải chuyển đổi sang một mô hình kinh tế bền vững hơn. Kinh tế tuần hoàn nổi lên như một giải pháp khả thi với mục tiêu tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu chất thải và tái tạo các hệ sinh thái tự nhiên.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc