Phát triển tài khoản thanh toán cá nhân nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam hiện nay

Nghiên cứu - Trao đổi
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, dịch vụ thanh toán (hay còn gọi là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt) được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán và thực hiện giao dịch thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ và các dịch vụ thanh toán khác.
aa

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu tình hình phát triển tài khoản thanh toán của cá nhân trong hệ thống ngân hàng từ khi Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/01/2020. Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được trong việc phát triển tài khoản thanh toán cá nhân giai đoạn 2020 - 2021, tác giả đề xuất một số nội dung cần thực hiện nhằm mở rộng hơn nữa số lượng tài khoản cá nhân tại các ngân hàng, hướng tới đạt được mục tiêu về phổ cập dịch vụ thanh toán cho người dân mà Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đã đặt ra.

Từ khóa: Dịch vụ thanh toán, tài chính toàn diện, tài khoản thanh toán cá nhân

Developing inpidual payment accounts to promote financial inclusion in Vietnam today

Abstract: This article studies the development of inpidual payment accounts in the banking system since the National Financial Inclusion Strategy to 2025, with orientation to 2030, was approved by the Prime Minister (on January 22, 2020). Based on analyzing the achievement in the development of inpidual payment accounts in the period 2020 - 2021, the author offers some recommendations to expand the number of inpidual accounts in the banking system in order to achieve the goal of the National Financial Inclusion Strategy aiming at universalizing the payment services for people.

Keywords: Payment service, financial inclusion, inpidual payment account.

1. Đặt vấn đề

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, dịch vụ thanh toán (hay còn gọi là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt) được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán và thực hiện giao dịch thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ và các dịch vụ thanh toán khác. Trong đó, ngoại trừ giao dịch chuyển tiền, thu hộ và chi hộ có thể thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng hoặc không thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng, còn lại các giao dịch khác đều phải thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng.

Theo Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thanh toán là một dịch vụ tài chính cơ bản được hướng tới phổ cập cho người dân. Chiến lược này đặt mục tiêu đến cuối năm 2025, ít nhất 80% người trưởng thành có tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác; đồng thời, số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt tốc độ tăng 20% - 25% hằng năm.


Phát triển tài khoản thanh toán cá nhân nhằm nâng cao mức độ tiếp cận của người dân đối với dịch vụ thanh toán

Mặc dù ở Việt Nam những năm gần đây có nhiều loại dịch vụ thanh toán đang tồn tại, đồng thời Chiến lược tài chính toàn diện cũng xác định mục tiêu phát triển đa dạng các tổ chức cung ứng, kênh phân phối, sản phẩm, dịch vụ tài chính, song nhìn chung, dịch vụ thanh toán qua tài khoản do hệ thống ngân hàng cung ứng vẫn là phổ biến. Do đó, việc phát triển tài khoản thanh toán cá nhân tại các ngân hàng không chỉ là điều kiện cần thiết để người dân có thể sử dụng các dịch vụ thanh toán mà còn là tiền đề quan trọng để mở rộng khả năng cung ứng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng và tăng quy mô giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt theo mục tiêu mà Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đặt ra. Cũng chính vì thế, có thể coi phát triển tài khoản thanh toán cá nhân là một giải pháp cơ bản trong việc nâng cao mức độ tiếp cận của người dân đối với dịch vụ thanh toán, từ đó góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở nước ta.

2. Thực trạng phát triển tài khoản thanh toán cá nhân tại các ngân hàng trong thời kỳ thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia

Tài khoản thanh toán của cá nhân là tài khoản do khách hàng là cá nhân mở tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Trước khi có Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán của cá nhân được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tại Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 và Thông tư số 02/2019/TT-NHNN ngày 28/02/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN. So với nội dung của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN thì Thông tư số 02/2019/TT-NHNN có một số điểm thông thoáng hơn, trong đó, quan trọng nhất là việc cho phép người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng mà không cần có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong việc mở tài khoản thanh toán như quy định tại Thông tư số 23/2014/TT-NHNN. Điều này cũng đồng nghĩa đối tượng mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được mở rộng hơn so với Thông tư số 23/2014/TT-NHNN.

Sau khi Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều khoản liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán cá nhân đã được quy định tại Thông tư số 23/2014/TT-NHNN và Thông tư số 02/2019/TT-NHNN. Trong đó, bên cạnh việc quy định đơn giản hơn về hồ sơ mở tài khoản thanh toán, giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán, thỏa thuận mở và sử dụng tài khoản thanh toán, trình tự, thủ tục mở tài khoản thanh toán, NHNN cũng bổ sung điều khoản quy định về mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử. Theo quy định này, việc mở tài khoản thanh toán của cá nhân tại các ngân hàng thông qua các phương thức điện tử được thực hiện dễ dàng hơn so với quy định tại Thông tư số 02/2019/TT-NHNN.

Với hành lang pháp lý được quy định theo các thông tư nói trên, trong những năm gần đây, việc mở tài khoản thanh toán cho khách hàng cá nhân đã được các ngân hàng thực hiện một cách rộng rãi. Kết quả là số lượng tài khoản thanh toán cá nhân trong hệ thống ngân hàng không ngừng tăng lên mỗi năm với tốc độ khá cao. Thống kê của NHNN cho thấy, nếu như cuối năm 2019, số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân trong hệ thống ngân hàng mới chỉ là 88,5 triệu tài khoản thì đến hết năm 2021, con số này đã tăng lên gấp 1,3 lần, đạt gần 115,2 triệu tài khoản. Bình quân trong 02 năm 2020 - 2021, tốc độ tăng số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân đạt 14,1%/năm, cao hơn nhiều so với mức tăng 10,9% của năm 2019. (Hình 1)

Hình 1. Số lượng tài khoản thanh toán cá nhân giai đoạn 2019 - 2021


Nguồn: NHNN


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một cá nhân có thể mở nhiều tài khoản thanh toán tại một ngân hàng và cũng có thể mở tài khoản thanh toán tại nhiều ngân hàng, vì vậy, trong số hơn 115 triệu tài khoản nói trên có thể có những tài khoản thuộc về một cá nhân. Tuy nhiên, với số lượng tài khoản cao hơn cả dân số và cao hơn nhiều so với số người đủ tuổi mở tài khoản (từ 15 đủ tuổi trở lên)1, có thể thấy, đến hết năm 2021, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng ở nước ta là khá cao.

Có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự tăng trưởng mạnh về số lượng tài khoản thanh toán cá nhân trong hệ thống ngân hàng thời gian qua. Bên cạnh nguyên nhân từ sự tăng lên của nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt theo sự phát triển chung của nền kinh tế, việc các khách hàng cá nhân mở tài khoản thanh toán ngày càng nhiều tại các ngân hàng còn bắt nguồn từ việc NHNN mở rộng đối tượng được mở tài khoản thanh toán cá nhân và đơn giản hóa các quy định về mở tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Đặc biệt, với việc cho phép sử dụng rộng rãi hơn các phương thức điện tử để mở tài khoản thanh toán cho cá nhân, việc mở tài khoản thanh toán cá nhân tại các ngân hàng ngày càng trở nên thuận tiện, vừa bắt kịp xu thế phát triển của công nghệ ngân hàng, vừa phù hợp với quan điểm và giải pháp được đưa ra tại Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia2. Cùng với đó, việc ngày càng nhiều ngân hàng áp dụng chính sách không yêu cầu duy trì số dư tiền gửi tối thiểu trên tài khoản thanh toán cũng như không thu các loại phí đối với khách hàng cá nhân (phí mở thẻ, phí duy trì tài khoản, phí chuyển tiền thông qua ứng dụng ngân hàng trên điện thoại thông minh...) hoặc thu phí với mức thấp cũng tạo động lực rất lớn cho các khách hàng cá nhân trong việc mở tài khoản để sử dụng dịch vụ thanh toán do các ngân hàng cung ứng.

Đi cùng sự tăng trưởng số lượng tài khoản cá nhân được mở tại các ngân hàng như mô tả ở Hình 1, số dư tiền gửi trên các tài khoản này cũng không ngừng tăng lên qua từng năm. Số liệu thống kê cho thấy, tại thời điểm cuối năm 2019, số dư tài khoản thanh toán cá nhân mới chỉ gần 500 nghìn tỷ đồng, nhưng đến hết năm 2021, con số này đã tăng lên 1,9 lần, đạt hơn 937 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán cá nhân giai đoạn 2020 - 2021 lần lượt là 33,4% và 40,6%, cao hơn so với mức tăng 31,6% của năm 2019. (Hình 2)

Hình 2: Số dư tài khoản thanh toán cá nhân giai đoạn 2019 - 2021


Nguồn: NHNN


Với số dư tiền gửi được duy trì như trên, các tài khoản thanh toán của cá nhân đã góp phần đáng kể vào việc tăng quy mô tiền gửi nói riêng và phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt nói chung cho nền kinh tế. Nếu như năm 2019, số dư tài khoản thanh toán của cá nhân chỉ chiếm 10,4% số tiền gửi của dân cư, 5,7% tổng tiền gửi và 5,3% tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế, thì sang giai đoạn 2020 - 2021 khi Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia được triển khai thực hiện, các con số này đã tăng lên khá cao, đạt bình quân lần lượt là 15,4%, 7,7% và 7,1%. So sánh riêng năm 2021 với năm 2019, thì tỷ trọng số dư tài khoản thanh toán của cá nhân trong tiền gửi của dân cư và tổng tiền gửi đã tăng lên lần lượt gấp 1,71 lần và 1,51 lần, còn tỷ trọng số dư tài khoản thanh toán của cá nhân trong tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng lên gấp 1,48 lần. Đến hết năm 2021, số dư tài khoản thanh toán cá nhân chiếm lần lượt 17,7%, 8,6% và 7,9% trong tiền gửi của dân cư, tổng tiền gửi và tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế. (Hình 3)

Hình 3: Tỷ trọng số dư tài khoản thanh toán cá nhân

trong phương tiện thanh toán giai đoạn 2019 - 2021


Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của NHNN


Đồng thời với sự tăng lên của phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, trong các năm triển khai thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia (2020 - 2021), quy mô giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt cũng tăng lên rất lớn. Thống kê của NHNN cho thấy, nếu như trong năm 2019, số lượng giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt mới chỉ đạt hơn 1.719,4 triệu món, thì trong 02 năm 2020 - 2021, con số này đã lần lượt tăng lên 1,72 lần và 2,34 lần, tương ứng với 2.957,3 triệu và 4.017 triệu món (Hình 4). Tính bình quân, trong giai đoạn 2020 - 2021, số lượng giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt đã tăng thêm 52,8%/năm, cao hơn rất nhiều so với mục tiêu về tốc độ tăng số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đến năm 2025 được đặt ra tại Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia (20% - 25%/năm).


Hình 4: Số lượng giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt

giai đoạn 2019 - 2021


Nguồn: NHNN

Cùng với sự tăng trưởng số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt trong giai đoạn 2020 - 2021, giá trị của các giao dịch này cũng tăng lên rất đáng kể. Nếu như năm 2019, giá trị giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt mới chỉ đạt hơn 123,7 triệu tỷ đồng, thì sang năm 2020, con số này đã tăng thêm 16,2% và đạt 143,8 triệu tỷ đồng, sau đó tiếp tục tăng thêm 15,6% và đạt 166,3 triệu tỷ đồng vào năm 2021 (Hình 5). Tính bình quân, trong 02 năm 2020 - 2021, tốc độ tăng giá trị giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt đạt 15,9%/năm. Mặc dù thấp hơn so với tốc độ tăng 27,2% của năm 2019 song tốc độ tăng giá trị giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt của 02 năm thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia cũng khá cao, góp phần đưa giá trị bình quân các giao dịch này trong giai đoạn 2020 - 2021 tăng lên gấp 1,25 lần so với năm 2019.

Hình 5. Giá trị giao dịch thanh toán nội địa không dùng tiền mặt

giai đoạn 2019 - 2021


Nguồn: NHNN


3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển tài khoản thanh toán cá nhân đáp ứng mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia

Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đặt mục tiêu đến năm 2030, mỗi người trưởng thành có ít nhất một tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác. Để đạt được mục tiêu này, Chiến lược cũng đề ra nhiều nhiệm vụ và giải pháp khác nhau mà trong đó, các giải pháp gắn với ứng dụng công nghệ hiện đại được chú trọng thực hiện, như: Cho phép áp dụng quy trình nhận biết khách hàng đơn giản và gián tiếp từ xa bằng phương thức điện tử trực tuyến (e-KYC) đối với việc mở tài khoản; rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ tài chính, nhất là những sản phẩm, dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số; đẩy mạnh thanh toán qua thiết bị di động, phát triển mạnh các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số, tài chính số cho người dân sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

Với việc Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 02/2019/TT-NHNN bãi bỏ điều kiện về tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong việc mở tài khoản thanh toán đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, hành lang pháp lý hiện nay hoàn toàn đáp ứng được mục tiêu tiến tới mọi người trưởng thành đều có thể có tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mà không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của cá nhân. Đồng thời, với các nội dung được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 16/2020/TT-NHNN có thể thấy, các quy định hiện hành của NHNN về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng đã bám sát quan điểm và giải pháp được đề ra tại Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, đặc biệt là quy định về việc mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu về phổ cập dịch vụ thanh toán cho người dân, thì việc triển khai thực hiện các giải pháp được đề ra tại Chiến lược tài chính quốc gia cần có sự nỗ lực rất lớn của hệ thống ngân hàng. Theo đó, bên cạnh việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định nội bộ về việc mở và quản lý tài khoản thanh toán của cá nhân để có thể phòng ngừa được các rủi ro phát sinh, các ngân hàng cần tiếp tục xem xét thực hiện một số giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán cá nhân, như:

- Xem xét tiếp tục giảm hoặc miễn các loại phí liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán của cá nhân (phí mở tài khoản, phí duy trì tài khoản, phí chuyển tiền…).

- Bố trí thêm thiết bị giao dịch tại các địa bàn có điều kiện khó khăn cùng với việc mở rộng lắp đặt các máy giao dịch ngân hàng tự động hoặc máy rút tiền có chức năng gửi tiền để thuận tiện cho người dân khi có nhu cầu nộp tiền vào tài khoản và thực hiện các giao dịch thanh toán.

- Đa dạng hóa tiện ích và đơn giản hóa giao diện của các ứng dụng ngân hàng trên điện thoại thông minh để thu hút nhiều khách hàng sử dụng các ứng dụng này trong việc mở tài khoản, nộp tiền, rút tiền hoặc chuyển tiền.

- Mở rộng liên kết và miễn hoặc giảm phí giao dịch tại máy rút tiền tự động của ngân hàng ngoài hệ thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng của các ngân hàng được sử dụng máy rút tiền tự động của ngân hàng khác để giao dịch.

1 Số liệu của Tổng cục Thống kê (2022) cho thấy, năm 2021, nước ta có dân số trung bình là 98,506 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 50,561 triệu người.

2 Theo quan điểm được nêu tại Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, ứng dụng công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo là thành tố quan trọng thúc đẩy tài chính toàn diện. Một trong những giải pháp mà Chiến lược đưa ra là cho phép áp dụng quy trình nhận biết khách hàng đơn giản và gián tiếp từ xa bằng phương thức điện tử trực tuyến (e-KYC) đối với việc mở tài khoản tại các tổ chức được cấp phép.


Tài liệu tham khảo:

1. Thống kê về hoạt động thanh toán, truy cập ngày 20/7/2022 tại https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/hdtt/

2. Thống kê về tổng phương tiện thanh toán, truy cập ngày 15/7/2022 tại https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/pttt/tpttt

3. Niên giám Thống kê 2021, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.


TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng