Nợ xấu và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

Công nghệ & ngân hàng số
Nợ xấu có tác động tiêu cực không chỉ đối với các NHTM mà còn đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên đến nay nhiều khoản nợ...
aa

Nợ xấu có tác động tiêu cực không chỉ đối với các NHTM mà còn đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên đến nay nhiều khoản nợ xấu vẫn chưa được xử lý dứt điểm, cần phải tiếp tục xử lý. Bài viết này sẽ tập trung phân tích tác động của nợ xấu đến hoạt động ngân hàng dưới giác độ cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế.

1. Vài nét về nợ xấu

Nợ xấu của ngân hàng là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 đến nhóm 5 theo phân loại của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa tổng nợ xấu so với tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5.

Theo thống kê trên Vietstock.vn,tỷ lệ xấu của một số NHTM Việt Nam vẫn trong khoảng 0,98% đến gần 3%.

Về tác động tiêu cực của nợ xấu được xem xét dưới nhiều góc độ.

Đối với nền kinh tế: Ngân hàng là trung gian tài chính - huy động vốn từ các chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi và cung cấp vốn cho các chủ thể cần vốn; thông qua đó sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng tác động tích cực đến phát triển nền kinh tế. Nợ xấu ngân hàng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế trên phương diện hạn chế khả năng khách hàng tiếp cận vốn vay của ngân hàng vì lý do lãi suất và điều kiện vay vốn. Ở mức độ cao hơn, nếu nợ xấu của một ngân hàng phát triển theo chiều hướng xấu, không được giải quyết, ngân hàng có thể đổ vỡ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền đối với hệ thống.

Đối với hệ thống các ngân hàng thương mại: nợ xấu là dấu hiệu của chất lượng cho vay kém, hiệu quả hoạt động tín dụng thấp, đe dọa khả năng thanh khoản, hạn chế phát triển hoạt động tín dụng, làm giảm uy tín của ngân hàng, là nguyên nhân rủi ro lãi suất; làm giảm thu nhập của ngân hàng; nếu nguồn bù đắp rủi ro không đủ, nợ xấu sẽ ăn vào vốn tự có của ngân hàng… cuối cùng nợ xấu là nhân tố giảm năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

2. Tác động nợ xấu đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh hội nhập

- Cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh hội nhập.

Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách cụ thể, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Theo đề xuất của Béla Balassa từ thập niên 1960 (Wikipedia) và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nguyễn Xuân Thắng (2007) cho rằng, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.

Trong hội nhập kinh tế quốc tế, quan trọng và nhạy cảm nhất vẫn là hội nhập về tài chính - ngân hàng. Hội nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng, là xu thế phát triển kinh tế - tài chính, không những của từng khu vực, mà còn của thế giới.

Hội nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng là thỏa ước kinh tế - tài chính, theo đó một số định chế kinh doanh ngân hàng của quốc gia này, được quyền kinh doanh ở quốc gia khác mà không bị hạn chế. Quá trình hội nhập sẽ làm cho cạnh tranh giữa các định chế kinh doanh ngân hàng của quốc gia đó diễn ra mạnh mẽ hơn trên nhiều phương diện, cụ thể hơn cạnh tranh không những diễn ra giữa các ngân hàng nội địa, mà còn diễn ra giữa các ngân hàng nội địa với các định chế tài chính nước ngoài. Đặc điểm trong cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập là các định chế tài chính nước ngoài có nền kinh tế thị trường phát triển có lợi thế hơn các định chế trong nước về tài chính, công nghệ. Vì vậy, các ngân hàng thương mại trong nước cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

- Nợ xấu là tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

Có nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Nghiên cứu một số tài liệu khác nhau, chúng tôi thấy rằng quan điểm của Nguyễn Thị Quy (2005) phản ánh đầy đủ nội hàm cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Theo đó, cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm mở rộng thị phần; bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh, có khả năng chống đỡ những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh, bảo đảm mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng trưởng.

Về tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Nguyễn Thị Quy cho rằng, lợi thế của từng ngân hàng được đánh giá thông qua các tiêu chí: tiềm lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực nhân sự, năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức, sản phẩm và hệ thống kênh phân phối, mức độ cạnh tranh và khả năng hợp tác giữa các ngân hàng. Theo Lương Xuân Minh, Nguyễn Thị Thu Trang (2016), năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại có thể đánh giá thông qua hai chỉ tiêu, đó là năng lực tài chính và năng lực công nghệ. Trong nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Nguyễn Thanh Phong (2010) phân tích năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua các tiêu chí: năng lực tài chính gồm quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn vốn, chất lượng tài sản có, năng lực công nghệ, nguồn nhân lực.

Dù quan điểm và cách tiếp cận khác nhau, nhưng chúng tôi cho rằng: năng lực tài chính là một trong tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Trong đó, một nhân tố quan trọng của năng lực tài chính là chất lượng tài sản có. Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN quy định về xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước của NHNN, tiêu chí chất lượng tài sản của ngân hàng được đánh giá theo các nhóm chỉ tiêu về định lượng và định tính. Theo đó nhóm chỉ tiêu định lượng gồm tỷ lệ nợ xấu, nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý, nợ cơ cấu tiềm ấn trở nên nợ xấu trên tổng nợ cộng thêm các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được, tỷ lệ nợ nhóm 2 so với tổng nợ, tỷ lệ dư nợ cấp tín dụng của các khách hàng có dư nợ cấp tín dụng lớn so với dư nợ cấp tín dụng đối với tổ chức kinh tế, cá nhân,…

Với cách tiếp cận như trên, năng lực tài chính của ngân hàng có thể được hiểu là các yếu tố tạo thành năng lực đó gồm: Năng lực vốn tự có, gồm quy mô vốn tự có và hệ số an toàn vốn; năng lực huy động vốn; chất lượng tài sản có; năng lực sinh lời của vốn.

- Tác động của nợ xấu đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

Như đề cập trên đây, nợ xấu ngân hàng có tác động tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

Tác động của nợ xấu đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại là khá lớn làm giảm khả năng sinh lời của vốn và tài sản, giảm tỷ lệ an toàn vốn, kìm chế quy mô tín dụng, hạn chế mở rộng kênh phân phối, suy giảm năng lực nhân sự,… Nội dung này tập trung phân tích cơ chế tác động của nợ xấu đến năng lực tài chính của ngân hàng thông qua 3 nhân tố đầu tiên.

- Về khả năng sinh lời (ROE, ROA).

Nguyên nhân tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng chính là sự thất thoát về thu nhập. Hiện nay, thu nhập phần lớn là từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một khi ngân hàng có nợ xấu, ngân hàng không có khả năng thu được lãi đầy đủ. Bên cạnh đó, do nợ xấu ngân hàng phải thực hiện tái tài trợ dư nợ bằng các khoản vốn huy động mới. Trong trường hợp lãi suất thị trường tăng, ngân hàng chịu rủi ro lãi suất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Ngoài ra, dự phòng được trích được hạch toán vào chi phí, nếu không được hoàn nhập, thu nhập của ngân hàng sẽ giảm; các khoản cho vay không thu hồi được đủ, sau khi bù đắp bằng quỹ dự phòng và khoản tiền thu được từ phát mại tài sản, sẽ “ăn vào vốn”. Khoản này, nếu có, cũng là nhân tố làm giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng.

Sự giảm sút thu nhập của ngân hàng đồng nghĩa với giảm lợi nhuận. Theo đó, tỷ lệ khả năng sinh lời của vốn ROA và tỷ lệ khả năng sinh lời của tổng tài sản đều giảm. Nếu ROA, ROE của ngân hàng nào cao thì ngân hàng đó được khách hàng cũng như nhà đầu tư đánh giá cao hơn. Từ đó, vị thế cạnh tranh của ngân hàng đó cũng sẽ tốt hơn trong việc thu hút các nguồn lực tài chính. Vì vậy, khả năng sinh lời cao là chỉ tiêu phản ảnh sức mạnh tài chính, tạo nên NLCT của NHTM.

- Về vốn tự có và hệ số an toàn vốn (CAR).

Vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Theo quy định tại Thông tư số 19/2017/TT-NHNN, ngày 28/12/2017, thì Giá trị thực vốn điều lệ của ngân hàng được xác định bằng vốn điều lệ, vốn được cấp và thặng dư vốn cổ phần, cộng (trừ) lợi nhuận lũy kế chưa phân phối (lỗ lũy kế chưa xử lý) được phản ánh trên sổ sách kế toán. Rõ ràng rằng, vốn tự có của ngân hàng để tính hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR có thành tố của lợi nhuận kinh doanh. Một khi chất lượng tín dụng của ngân hàng kém, có nợ xấu, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm như phân tích trên đây. Theo cách tính hệ số an toàn vốn thì CAR tỷ lệ thuận với vốn tự có và tỷ lệ nghịch với tài sản có rủi ro. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tác động tiêu cực của nợ xấu đối với hệ số an toàn vốn - là một trong những nhân tố phản ảnh năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.

- Về quy mô về tài sản của ngân hàng.

Ở đây, tác giả chỉ đề cập đến quy mô hoạt động của ngân hàng thông qua hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Theo quy định hiện hành, ngân hàng chỉ được cho vay một khách hàng với dư nợ không vượt quá 15% vốn tự có và dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có. Trong đó vốn tự có của ngân hàng gồm nhiều khoản hình thành từ lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.

Nguồn vốn này của nhiều ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn tự có của ngân hàng. Rõ ràng rằng, với nguồn vốn tự có lớn, ngân hàng có khả năng đáp ứng được nhu cầu vay vốn lớn của các khách hành, nhờ vậy, phát triển được nhiều khách hàng, mở rộng tín dụng tốt hơn so với các ngân hàng có vốn tự có nhỏ. Hiệu ứng của quá trình mở rộng tín dụng là tăng thu nhập của ngân hàng. Không những vậy, cùng với tăng trưởng quy mô tín dụng, nguồn vốn ngân hàng phải được huy động để đáp ứng cho sự tăng trưởng đó, dẫn đến quy mô về tài sản của ngân hàng tăng.

3. Một số khuyến nghị nhằm giảm thiểu nợ xấu, nâng cao năng lực cạnh tranh về lĩnh vực tài chính của ngân hàng


Thứ nhất, về ngắn hạn:

Xử lý nợ xấu là một trong những biện pháp nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng. Nợ xấu phát sinh do nhiều nguyên nhân. Để xử lý nợ xấu dứt điểm và có hiệu quả trên cơ sở gắn liền trách nhiệm của cá nhân liên quan đến cho vay, ngân hàng cho vay cần tiến hành kiểm tra, đánh giá các khoản vay để xác định rõ nguyên nhân. Công ty quản lý nợ (VAMC) cần mua những món nợ xấu do nguyên nhân khách quan, qua đó tạo điều kiện xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu này trên cơ sở có sự ủng hộ của Chính phủ và các Ban, ngành liên quan.

Đối với những món nợ xấu cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay kinh doanh bất động sản có tài sản thế chấp, các ngân hàng cần có biện pháp xử lý kiên quyết bằng nguồn lực nội tại; bao gồm chế tài đối với các cá nhân có liên quan.

Thứ hai, về dài hạn:

Các ngân hàng cần có chiến lược quản trị rủi ro phù hợp; xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, tăng cường công tác giám sát đối với quản trị rủi ro. Gắn kết trách nhiệm vật chất đối với các cá nhân có quyền phê duyệt các quyết định có rủi ro.

Về quản lý Nhà nước, NHNN cần kiên quyết áp dụng chế tài đối với các ngân hàng yếu kém do rủi ro trong kinh doanh tín dụng, xem xét hạn chế hoạt động cho vay của ngân hàng yếu kém đối với những lĩnh vực có nhiều rủi ro; hoàn thiện quy định về trích và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, tránh tình trạng lợi dụng việc sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro đối với các món nợ có liên quan đến trách nhiệm chủ quan của các cá nhân trong ngân hàng. Theo đó:

+ Hội đồng xử lý rủi ro cần phải có sự độc lập cao. Thành viên Hội đồng là chủ tịch Hội đồng không thể là người có liên quan đến món vay phải xử lý; các thành viên khác của Hội đồng cũng phải tuân thủ nguyên tắc này;

+ Đối với các khoản nợ thuộc nhóm 5, sau khi chuyển nợ sang nhóm 5, các ngân hàng cần tiến hành xử lý tài sản bảo đảm ngay mà không chờ đến việc sau khi số tiền dự phòng được sử dụng, nhưng không đủ bù đắp mới xử lý phát mại tài sản;

+ Đối với các món nợ xấu do các cá nhân có liên quan gây ra, cần quy trách nhiệm bồi thường, số tiền bồi thường sẽ là một trong những nguồn bù đắp thất thoát;

+ Việc đánh giá, phân loại ngân hàng cần tính đến chỉ tiêu trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Nợ xấu thấp nhờ xử lý bằng quỹ dự phòng không thể là tiêu chí để xếp thứ hạng cao trong quá trình đánh giá, phân loại ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:

- Luật các TCTD 2010 và Luật bổ sung sửa đổi 2017.

- Ngân hàng nhà nước, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, ngày 21/01/2013, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

- Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

- Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 19/2017/TT-NHNN, ngày 28/12/2017, quy định về cách tính giá trị thực của vốn điều lệ.

- Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 05/VBHN-NHNN, ngày 17/01/2018 về việc ban hành hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng.

- Ngân hàng Nhà nước, Thông tư 52/2018/TT, hiệu lực từ 01/04/2019, quy định về xếp hạng tổ chức tín dụng.

- Nguyễn Thị Quy (2005)-Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập-NXB Lý luận chính trị.

- Tapchitaichinh.vn

- Wikipedia

- Vietstock.vn

ThS. Vũ Thị Thu Hương

Theo TCNH số 6/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Với quyết tâm từ các cấp lãnh đạo, nỗ lực của ngành Ngân hàng và ý thức cảnh giác của mỗi người dân, chúng ta hoàn toàn có thể giảm thiểu mối đe dọa từ deepfake, góp phần bảo vệ an ninh tài chính quốc gia trong kỷ nguyên số hóa.
Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Ngày 29/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thời báo Ngân hàng đã phối hợp với Vụ Thanh toán - NHNN tổ chức sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” với chủ đề “Hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới”. Tham dự sự kiện có đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06.
Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Bài viết phân tích sự chuyển dịch của hệ thống chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh vai trò của hành vi khách hàng, hiệu quả chi phí và công nghệ. Mô hình hybrid được xem là giải pháp tối ưu, kết hợp giữa kênh số và chi nhánh truyền thống. Nghiên cứu đề xuất tái cấu trúc mạng lưới, nâng cao năng lực nhân sự và ứng dụng dữ liệu lớn để phục vụ đa dạng nhu cầu khách hàng.
Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc