Nỗ lực nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được tổ chức vào ngày 14/12/2021 đã thống nhất cao khẳng định về sự hình thành, phát triển của trường phái đối ngoại, ngoại giao cây tre Việt Nam: Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
aa

Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được tổ chức vào ngày 14/12/2021 đã thống nhất cao khẳng định về sự hình thành, phát triển của trường phái đối ngoại, ngoại giao "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân chủ trì lễ đón chính thức Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 12-13/12/2023 (Nguồn ảnh: Internet)

Những chuyến thăm ngoại giao dày đặc và cân bằng

Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường để bảo vệ giang sơn, giành lại độc lập, chủ quyền, ông cha ta luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, lấy hòa bình, hòa hiếu và hữu nghị làm cốt lõi, đề cao lòng nhân ái, vị tha và bao dung, tạo dựng nên những truyền thống và bản sắc độc đáo, hồn cốt và khí phách của đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đầy hào khí, giàu tính nhân văn.

Theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Việt Nam tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động và kết hợp có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Nhờ đó, công tác đối ngoại, ngoại giao của nước ta những năm qua đã đạt những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, trở thành điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện và sâu rộng hơn.

Năm 2023, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam diễn ra sôi động, liên tục, nổi bật là sự kiện Việt Nam và Israel kí Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa hai nước sau 07 năm với 12 phiên đàm phán; Việt Nam đang khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện giữa Việt Nam với Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (CEPA); Việt Nam và 13 đối tác trong khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (IPEF) cũng đã công bố kết thúc đàm phán về Thỏa thuận chuỗi cung ứng IPEF quốc tế đầu tiên giữa các thành viên. Hơn nữa, với chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden và việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, có 06 nước Đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước Đối tác chiến lược và 12 nước Đối tác toàn diện, trong đó bao gồm tất cả các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước phát triển nhất thế giới (G20).

Tiêu biểu cho nỗ lực nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam là các chuyến thăm làm việc khá dày đặc và cân bằng của các nguyên thủ nước ngoài đến Việt Nam và của Lãnh đạo chủ chốt Việt Nam ra nước ngoài.

Theo Bộ Ngoại giao, kể từ Đại hội Đảng lần thứ XIII đến nay, Lãnh đạo chủ chốt Việt Nam đã có 45 chuyến công du các nước, hầu hết tới các nước láng giềng, các nước đối tác chiến lược, các nước ASEAN, nhiều đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Trong số này có những "chuyến thăm lịch sử" như chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10/2022. Đồng thời, Việt Nam cũng đón tiếp gần 50 chuyến thăm Việt Nam của lãnh đạo các nước. Riêng năm 2023, Việt Nam đã đón tiếp hàng loạt chuyến thăm chính thức quan trọng. Có thể kể đến các chuyến thăm như:

Chủ tịch Đảng nước Nga thống nhất, Phó Chủ tịch Hội đồng an ninh Liên bang Nga Dmitry Medvedev thăm chính thức Việt Nam từ ngày 21 - 23/5/2023; Thủ tướng Australia Anthony Albanese thăm chính thức Việt Nam từ ngày 03 - 04/6/2023; Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc Yoon Suk Yeol và Phu nhân thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 22 - 24/6/2023; Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim và Phu nhân thăm chính thức Việt Nam từ ngày 20 - 21/7/2023; Tổng thống Kazakhstan Kassym-Jomart Tokayev thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên từ ngày 20 - 22/8/2023; Thủ tướng Cộng hòa Singapore Lý Hiển Long cùng đoàn đại biểu cấp cao Singapore sang thăm và làm việc tại Việt Nam từ ngày 27 - 29/8/2023; Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam trong hai ngày 10 - 11/9/2023 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Cuba Esteban Lazo Hernández dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Cuba sang thăm Việt Nam và dự Lễ kỷ niệm 50 năm chuyến thăm của Lãnh tụ Cuba Fidel Castro tới vùng Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Quảng Trị (9/1973 - 9/2023) từ ngày 24 - 29/9/2023.

Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh và Phu nhân thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 01/11 - 5/11/2023 theo lời mời của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia Samdech Khuon Sudary thăm chính thức Việt Nam từ ngày 30/11 - 02/12/2023; Thủ tướng Cộng hòa Belarus Roman Golovchenko thăm và làm việc tại Việt Nam từ ngày 06 - 09/12/2023; Thủ tướng Vương quốc Campuchia Samdech Moha Bovor Thipadei Hun Manet thăm chính thức Việt Nam từ ngày 11 - 12/12/2023.

Ngày 12 và 13/12/2023, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân thăm cấp Nhà nước đến nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn Thưởng và Phu nhân...

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hội đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Đoàn đại biểu cấp cao Hoa Kỳ thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong hai ngày 10 - 11/9/2023 (Nguồn ảnh: Internet)


Những thành quả ngọt lành

Nhờ những nỗ lực ngoại giao không mệt mỏi và xử lí đúng đắn các vấn đề đối ngoại, quan hệ với các đối tác trên cơ sở kiên định độc lập, tự chủ, hòa hiếu, đồng thời linh hoạt trong sách lược, ứng xử, vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được củng cố, cả về song phương và đa phương; khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng đã được nâng lên tầm cao mới, tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, hợp tác ngày càng mở rộng, thực chất và hiệu quả. Những hoạt động đối ngoại đã phát huy vai trò tiên phong, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong huy động nguồn lực bên ngoài, đóng góp quan trọng vào kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 và phát triển kinh tế - xã hội, nhất là "ngoại giao vắc - xin".

Vị thế, uy tín và hình ảnh nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm tiếp tục được nâng cao; Việt Nam luôn được tín nhiệm cao trong khi bầu vào nhiều vị trí, trọng trách quốc tế quan trọng, nhất là trong ASEAN và Liên hợp quốc.

Năm 2022, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và thứ 40 của thế giới, năng động và có độ mở cao, với quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 của thế giới; xếp thứ 30 trong bảng xếp hạng các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. “Chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo” (AI) của Việt Nam xếp hạng 55 toàn cầu và xếp thứ 6/10 trong ASEAN. “Chỉ số tích hợp phát triển bưu chính” (2IPD) của Việt Nam công bố trong tháng 10/2023 tăng 4,5 điểm, thuộc nhóm các nước đạt cấp độ 6/10, lên 1 cấp độ so với kì đánh giá trước và đứng thứ 7/30 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Klaus Schwab trong cuộc gặp với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ngày 05/9/2023, đã nhấn mạnh: Việt Nam là điểm sáng của tăng trưởng kinh tế sau đại dịch Covid-19 nhờ cách tiếp cận toàn diện về quản lí kinh tế vĩ mô, giúp đưa nền kinh tế vượt qua các thách thức của bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay.

Kết thúc năm 2023, Việt Nam tiếp tục nhận được sự đánh giá cao và không ngừng cải thiện vị thế quốc tế: “Chỉ số hạnh phúc toàn cầu" của Việt Nam tăng 12 bậc trong xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2023. “Chỉ số Đổi mới sáng tạo” của Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2022, xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế trong Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index 2023) năm 2023 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố ngày 27/9/2023. Chỉ số Tự do kinh tế đạt thứ hạng 72 so với 84 năm 2022 và 90 năm 2021, thứ 105 năm 2020 trong xếp hạng của Quỹ Di sản văn hóa. Chỉ số Phát triển bền vững (SDG) theo xếp hạng của Liên hợp quốc tăng điểm liên tục qua các năm, xếp thứ 55 (năm 2022). Việt Nam cũng được cải thiện về đánh giá “Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam”; về truyền thông số, thanh toán số, kinh tế số và xếp hạng tín nhiệm quốc tế về tín dụng dài hạn (ngày 08/12/2023, Fitch Ratings đã nâng hạng tín nhiệm nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ của Việt Nam từ mức BB lên BB+, với triển vọng ổn định...) ; ngoài ra, quyền lực “Hộ chiếu Việt Nam” được xếp hạng thứ 87, với 55 điểm đến được miễn thị thực theo Bảng xếp hạng hộ chiếu toàn cầu Henley Passport Index của Henley and Partners (xếp số 1 thế giới là hộ chiếu của Nhật Bản, Singapore, Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha cùng đạt 194 điểm, với 194 điểm đến được miễn thị thực).

Nhiều tín hiệu cho thấy, Việt Nam đang và sẽ có sự gia tăng mạnh mẽ và sâu hơn vào một số chuỗi cung ứng mới của thế giới trong nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ công nghệ cao. Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn nhất trên thế giới trong dòng vốn đầu tư dịch chuyển khu vực và quốc tế nhờ ưu thế ổn định chính trị, dân số trẻ, tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng và lượng người tiêu dùng có thu nhập trung bình đang tăng nhanh, hạ tầng ngày càng phát triển đồng bộ và hiện đại. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/12/2023 bao gồm: Vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỉ USD, tăng 32,1% so với năm 2022. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2023 ước đạt 23,18 tỉ USD, tăng 3,5% so với năm 2022. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất trong 5 năm qua.

Năm 2023, mặc dù có sự suy giảm thương mại quốc tế, nhưng công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng giúp nông nghiệp lập đỉnh cao mới, với xuất khẩu trên 53,01 tỉ USD, xuất siêu 12,07 tỉ USD, tăng 43,7%, chiếm trên 42,5% xuất siêu cả nước; với 6 mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỉ USD là rau quả, gạo, hạt điều, cà phê, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ; trong đó, xuất khẩu gạo ước đạt 4,78 tỉ USD, tăng 38,4% so với năm 2022; xuất khẩu rau quả đạt 5,69 tỉ USD, so với 3,36 tỉ USD của năm 2022. Lần đầu tiên lĩnh vực lâm nghiệp đã hoàn thành các thủ tục để chuyển nhượng thành công lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn carbon cho Quỹ Đối tác carbon trong lâm nghiệp thông qua Ngân hàng Thế giới (WB), thu về 1.200 tỉ đồng, góp phần phát triển lâm nghiệp.

Đặc biệt, tiếp theo chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden và tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên Đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 9/2023, ngay trong tháng 01/2024, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Jose W. Fernandez đã có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, với trọng tâm nhằm tăng cường các cơ hội hợp tác thương mại, thúc đẩy năng lượng sạch, hợp tác bán dẫn và chuỗi cung ứng cũng như các hợp tác kinh tế khác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Trong chuyến thăm, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Jose W. Fernandez nhấn mạnh, với lợi thế sẵn có, Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội cạnh tranh trong chuỗi cung ứng và phát triển ngành bán dẫn theo tinh thần Đạo luật về chíp mà Quốc hội Mỹ đã ban hành năm 2023, trong đó không chỉ quy định về sản xuất chất bán dẫn ở Mỹ mà còn hỗ trợ các quốc gia khi họ đang cố gắng tạo ra chuỗi giá trị bán dẫn quốc tế. Việt Nam hiện đã trở thành một trong 07 quốc gia trên thế giới được Hoa Kỳ tài trợ theo Quỹ bán dẫn quốc tế và là đối tác xuất khẩu chíp vào Mỹ lớn thứ ba thế giới, sau Đài Loan và Malaysia. Hoa Kỳ đã cam kết sẽ hợp tác với Việt Nam và hỗ trợ các mục tiêu của Việt Nam về việc có hơn 50.000 kĩ sư trong vài năm tới. Hiện nay, có 15 công ty Mỹ đã cam kết với Chính phủ Mỹ sẵn sàng đầu tư tổng giá trị tới 8 tỉ USD vào chất bán dẫn ở Việt Nam và sẽ chỉ sử dụng năng lượng tái tạo. Đây là một cơ hội tốt để mở rộng ngành công nghiệp bán dẫn và tăng cường năng lượng sạch ở Việt Nam, cũng như phát triển lực lượng lao động rất trẻ có trình độ, đa dạng hóa chuỗi cung ứng...

Đồng thời, trong tháng 01/2024, Việt Nam đã đón đoàn Tổng thống Cộng hòa Liên bang Đức Frank-Walter Steinmeier cùng đoàn đại biểu cấp cao thăm chính thức Việt Nam. Trong chuyến thăm kéo dài 02 ngày (23 - 24/01/2024), các thông điệp lớn liên tiếp được Tổng thống Cộng hòa Liên bang Đức và Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Đức đưa ra như "Việt Nam là đối tác kinh tế đáng tin cậy và Chính phủ Đức khuyến khích các công ty Đức đầu tư vào Việt Nam"; “các công ty Đức cam kết đầu tư bền vững tại Việt Nam với một chiến lược rõ ràng dài hạn”; cộng đồng người Việt Nam tại Đức là "tài sản quý báu" trong quan hệ hai nước, hai dân tộc. Chuyến thăm chính thức của Tổng thống Frank-Walter Steinmeier tới Việt Nam được kì vọng sẽ thúc đẩy hợp tác song phương và tạo ra cơ hội mới cho thương mại và đầu tư giữa hai quốc gia...

Ngày 29/01/2024, Tổng thống nước Cộng hòa Philippines Ferdinand Romualdez Marcos Jr. và Phu nhân, cùng đoàn đại biểu cấp cao Philippines đã tới Hà Nội, bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam, theo lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn Thưởng và Phu nhân. Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của Tổng thống Philippines Ferdinand Romualdez Marcos Jr. kể từ khi nhậm chức, đồng thời là chuyến thăm đầu tiên của một nguyên thủ Philippines đến Việt Nam sau hơn 07 năm và là minh chứng khẳng định quan hệ Đối tác chiến lược vững chắc giữa Việt Nam và Philippines, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, tạo xung lực thúc đẩy hợp tác hai nước, đóng góp tăng cường đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN.

Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động, tác động sâu sắc tới đời sống quốc tế và chủ nghĩa đa phương, sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân, đã góp phần nâng cao hiệu quả tổng thể của công tác đối ngoại, đề cao vị thế đất nước, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, xử lí các khó khăn, phức tạp về quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội và tranh thủ hiệu quả nguồn lực, tiến bộ quốc tế cho công cuộc phát triển đất nước. Những kết quả này là nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao và trực tiếp tham gia của lãnh đạo cấp cao, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các ban, bộ, ngành, địa phương; sự tăng cường chuyển đổi cả về tư duy lẫn hành động, chú trọng công tác dự báo, tham mưu kịp thời, tỉnh táo, chuẩn xác, sự hoàn thiện và bảo đảm hài hòa các khuôn khổ pháp lí, chính sách trong nước, đào tạo nguồn nhân lực tâm huyết, sẵn sàng dấn thân, đẩy mạnh hơn công tác tuyên truyền và bảo đảm nguồn lực tài chính để triển khai hiệu quả công tác đối ngoại của đất nước.

Đặc biệt, Hội nghị Ngoại vụ toàn quốc lần thứ 21 ngày 18/12/2023 đã thông qua Định hướng hành động trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của các địa phương giai đoạn tới với các nội dung quan trọng nổi bật là: (i) Tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện đồng bộ, hiệu quả, toàn diện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đại hội XIII của Đảng; (ii) Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của địa phương gắn với việc triển khai đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường thu hút nguồn lực phục vụ phát triển bền vững; (iii) Đẩy mạnh triển khai công tác ngoại giao kinh tế toàn diện, hiệu quả, thực chất; (iv) Không ngừng đổi mới, sáng tạo về phương thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đối ngoại địa phương; (v) Các địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai công tác đối ngoại địa phương trên các tất cả lĩnh vực khác của đối ngoại, với cách làm sáng tạo, chuyên nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ cho công tác đối ngoại địa phương tương xứng với thế và lực của đất nước; công tác xúc tiến đầu tư cần được triển khai có “trọng tâm” về sản phẩm, lĩnh vực, “trọng điểm” về đối tác tiềm năng, “chuyên nghiệp” trong phương thức thực hiện, nâng cao hiệu quả của các mối quan hệ hợp tác, kết nghĩa địa phương trên cơ sở chuẩn bị tốt nguồn lực và quan tâm đến nhu cầu và ưu tiên của phía bạn.

Theo ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc quốc gia của ADB tại Việt Nam, môi trường bên ngoài yếu kém đã ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực sản xuất định hướng xuất khẩu của Việt Nam, làm thu hẹp sản xuất công nghiệp... Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng và dự kiến sẽ phục hồi nhanh trong tương lai gần; nhiều tổ chức quốc tế có uy tín khẳng định sự tin tưởng vào triển vọng sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới của nền kinh tế nước ta, với mức tăng trưởng trung hạn hàng năm khoảng 6,7 - 7% GDP.

Tài liệu tham khảo:

1.https://hanoimoi.vn/nang-cao-hieu-qua-cong-tac-doi-ngoai-da-phuong-va-the-hien-ro-net-dau-an-viet-nam-tren-truong-quoc-te-656861.html
2.https://1thegioi.vn/tong-thong-duc-viet-nam-la-doi-tac-dang-tin-cay-cua-chinh-phu-duc 213534.html#:~:text=T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20%C4%90%E1%BB%A9c,hai%20qu%E1%BB%91c%20gia
3. https://vtc.vn/thu-truong-ngoai-giao-my-viet-nam-co-loi-the-canh-tranh-trong-chuoi-cung-ung-ar849992.html


TS. Nguyễn Minh Phong

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý quản lý tiền kỹ thuật số, một lĩnh vực vừa nhiều tiềm năng đổi mới, vừa ẩn chứa rủi ro hệ thống và pháp lý phức tạp. Bối cảnh thế giới cho thấy xu hướng hợp pháp hóa có kiểm soát, đặt trọng tâm vào bảo vệ nhà đầu tư, giám sát rủi ro và thúc đẩy phát triển công nghệ. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị về việc xây dựng khung pháp luật quản lý tiền kỹ thuật số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Giai đoạn 2018 - 2023 được đánh giá là một trong những giai đoạn biến động của kinh tế toàn cầu khi một loạt các sự kiện bất thường, ngoài dự đoán đã xảy ra, ảnh hưởng đến môi trường vĩ mô cũng như hệ thống tài chính tại các quốc gia. Theo đó, các nền kinh tế lớn trên thế giới bao gồm Mỹ, EU, Trung Quốc có những điều chỉnh lớn về chính sách tiền tệ - tài khóa và những điều chỉnh này đã ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô toàn cầu như lãi suất, tỉ giá. Nhóm tác giả đã thực hiện khái quát những thay đổi chính trong điều hành chính sách tiền tệ - tài khóa của ba quốc gia lớn và ước lượng tác động đến tỉ giá tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, chỉ có những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ của Mỹ và EU mới có ảnh hưởng đến tỉ giá, còn sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc và chính sách tài khóa cơ bản không có nhiều tác động đến tỉ giá Việt Nam.
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng