Những thách thức trong việc đạt được các mục tiêu ESG và một số khuyến nghị cho các ngân hàng tại Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Các mục tiêu về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đã ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của các ngân hàng. Bài viết phân tích một số thách thức chính đối với các ngân hàng Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu ESG gồm: (i) Cân bằng khả năng sinh lời và tính bền vững; (ii) Đo lường và báo cáo các chỉ số ESG; (iii) Thay đổi văn hóa tổ chức; (iv) Quản lí rủi ro danh tiếng.
aa

Tóm tắt: Các mục tiêu về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đã ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của các ngân hàng. Bài viết phân tích một số thách thức chính đối với các ngân hàng Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu ESG gồm: (i) Cân bằng khả năng sinh lời và tính bền vững; (ii) Đo lường và báo cáo các chỉ số ESG; (iii) Thay đổi văn hóa tổ chức; (iv) Quản lí rủi ro danh tiếng. Bài viết đưa ra một số khuyến nghị cụ thể giúp các ngân hàng tại Việt Nam vượt qua những thách thức trên bao gồm: (i) Chính phủ cần ban hành các chính sách và quy định bắt buộc về ESG để tạo động lực cho ngân hàng; (ii) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần đưa yếu tố ESG vào các quy định về an toàn vốn; (iii) Các ngân hàng cần xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động ESG cụ thể, gắn với thù lao nhân viên; (iv) Đầu tư xây dựng hệ thống đo lường và báo cáo ESG chuẩn theo tiêu chuẩn quốc tế; (v) Tổ chức đào tạo nâng cao nhận thức cho nhân viên về ESG; (vi) Phát triển các sản phẩm tín dụng xanh; (vii) Tham gia các sáng kiến và hiệp ước quốc tế về ESG.


Từ khóa: ESG, môi trường, ngân hàng, tính bền vững.

CHALLENGES IN ACHIEVING ESG GOALS FOR BANKS AND RECOMMENDATIONS
FOR COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM


Abstract: Environmental, social and governance (ESG) goals have played an increasingly important role for banks’ operations. The article analyzes main challenges for Vietnamese banks in achieving ESG goals: (i) balancing profitability and sustainability; (ii) measuring and reporting ESG metrics; (iii) changing organizational culture; (iv) managing reputational risk. The article proposes some specific recommendations to help Vietnamese commercial banks overcome the above challenges: (i) The Government needs to issue mandatory ESG policies and regulations to motivate banks; (ii) The State Bank of Vietnam should incorporate ESG factors into capital adequacy regulations; (iii) Banks need to develop specific ESG strategies and action plans, linked to employee remuneration; (iv) Investing in building systems to measure and report ESG performance aligned with international standards; (v) Training to improve employees’ awareness on ESG; (vi) Developing green credit products; and (vii) Participating in international initiatives and agreements on ESG.

Keywords: ESG, environment Banking, sustainability.

1. Giới thiệu

Trong những năm gần đây, các mục tiêu môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đã trở thành một phần không thể thiếu trong các kế hoạch chiến lược và hoạt động kinh doanh của các công ty và ngân hàng trên khắp thế giới. ESG đề cập đến một tập hợp các tiêu chuẩn nhằm đo lường tính bền vững và tác động đạo đức của một khoản đầu tư hoặc hoạt động kinh doanh. Các tiêu chí môi trường kiểm tra các đóng góp cho sự thay đổi khí hậu, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Các yếu tố xã hội đánh giá các thực tiễn lao động, cam kết về nhân quyền và tác động đến sự phát triển của cộng đồng. Quản trị giải quyết về trách nhiệm của hội đồng quản trị, thù lao của ban điều hành, chính sách tuân thủ, đạo đức và quyền của cổ đông (SASB, 2021). Bằng cách xem xét các rủi ro và cơ hội trên tất cả các lĩnh vực tính bền vững này, việc hội nhập ESG giúp các khoản đầu tư phù hợp với các giá trị và tăng cường hiệu quả xã hội và tài chính lâu dài (IRIS+, 2022).

Việc tích hợp các yếu tố ESG đã trở thành một ưu tiên chiến lược cấp bách đối với ngành tài chính toàn cầu giữa bối cảnh kì vọng ngày càng tăng từ các bên liên quan và những rủi ro ngày càng gia tăng về biến đổi khí hậu (World Economic Forum - WEF, 2022). Các ngân hàng đặc biệt phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ các cơ quan quản lí, nhà đầu tư, người tiêu dùng và các nhà hoạt động nhằm cân bằng các hoạt động cho vay và danh mục đầu tư với các nguyên tắc bền vững nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng carbon thấp trong khi đảm bảo tác động tích cực đối với xã hội (Funds Europe, 2022).

Các khảo sát gần đây tiết lộ quy mô của sự thay đổi cơ bản này: Khoảng 70% các giám đốc ngân hàng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tuyên bố, ESG là trọng tâm trong chiến lược cạnh tranh của họ trong 5 năm tới. Các ngân hàng hàng đầu toàn cầu đã cam kết tương ứng - Ngân hàng Mỹ đặt mục tiêu cung cấp 1,5 nghìn tỉ USD tài chính bền vững đến năm 2030 (Bank of America, 2023), trong khi HSBC nhắm đến mục tiêu cắt giảm 25% lượng phát thải của danh mục đầu tư trong thập kỉ này (HSBC, 2022).

Ngành Ngân hàng có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy áp dụng ESG ở khắp nền kinh tế bởi vì vai trò trung gian của nó kết nối người tìm kiếm vốn và nhà đầu tư. Các ngân hàng trực tiếp tài trợ cho các dự án và công ty thông qua cho vay và các dịch vụ khác. Các nhà quản lí tài sản trong các tập đoàn ngân hàng lớn cũng đầu tư vốn của khách hàng vào cổ phiếu, trái phiếu, quỹ và các tài sản thay thế (OECD, 2023). Bằng cách xem xét các tiêu chí ESG cho các quyết định cho vay và quản lí tài sản, ngân hàng có thể ảnh hưởng đáng kể đến dòng vốn hướng tới các thực tiễn kinh doanh bền vững và có đạo đức hơn.

Hơn nữa, với tư cách là mục tiêu thường xuyên chịu sự giám sát của công chúng, các ngân hàng phải chủ động quản lí dấu ấn ESG của chính tổ chức. Từ lương CEO đến quan hệ nhân viên đến các biện pháp kiểm soát quản trị, các ngân hàng đối mặt với kì vọng ngày càng tăng để thể hiện trách nhiệm môi trường, trách nhiệm xã hội và tính liêm chính trong lãnh đạo (World Economic Forum (WEF), 2022).

Tuy nhiên, bất chấp sự thừa nhận rộng rãi về tầm quan trọng ngày càng tăng của ESG, các ngân hàng đối mặt với những thách thức đáng kể trong việc hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu và tiêu chuẩn ESG. Bài viết này phân tích bốn thách thức then chốt về ESG đối với các ngân hàng trên khía cạnh môi trường, xã hội và quản trị. Các câu chuyện thành công toàn cầu được đánh giá để nhân rộng trong khi các khuyến nghị được đưa ra một cách cụ thể và cơ hội nổi lên như là các ngân hàng Việt Nam bắt đầu hành trình bền vững của họ giữa một thế giới thay đổi mạnh mẽ.

2. Thách thức đối với các ngân hàng trong việc đạt được các mục tiêu ESG

Để vượt qua những trở ngại này đòi hỏi sự cam kết, đầu tư và kiên trì chiến lược từ các ngân hàng tìm cách hội nhập các yếu tố ESG như một phần cốt lõi của mô hình kinh doanh của ngân hàng. Trong phần này, bài viết sẽ phân tích một số thách thức trong việc đạt được các mục tiêu ESG đối với các ngân hàng.

2.1. Cân bằng khả năng sinh lời với tính bền vững

Một sự mâu thuẫn cơ bản tồn tại giữa mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận truyền thống của ngân hàng và xu hướng phát triển bền vững đang nổi lên trong thời gian gần đây. Ngân hàng có nhiệm vụ ủy thác tạo ra lợi nhuận cho cổ đông và nhà đầu tư. Tuy nhiên, các khoản đầu tư và cho vay chỉ nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn và có khả năng gây ra hậu quả tiêu cực về môi trường và xã hội tạo ra các rủi ro lâu dài hơn. Ngành dịch vụ tài chính vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc hỗ trợ các ngành công nghiệp phát thải carbon cao góp phần đáng kể vào sự thay đổi khí hậu. Theo Rainforest Action Network (2022), vào năm 2021, 60 ngân hàng lớn nhất thế giới đã tài trợ cho các công ty nhiên liệu hóa thạch với 742 tỉ USD cho vay và bảo lãnh, tăng đáng kể so với năm 2020. Giảm tài trợ cho dầu mỏ, khí đốt và than đá để ủng hộ chuyển đổi năng lượng tái tạo sẽ rất cần thiết để ngân hàng giúp giảm thiểu các rủi ro biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, các ngành năng lượng tái tạo thường bị coi là có rủi ro cao hơn và lợi nhuận thấp hơn so với các công ty nhiên liệu hóa thạch truyền thống.

Các khoản vay và đầu tư tập trung vào ESG cũng có thể đòi hỏi nhiều dự trữ vốn hơn để tính đến các tổn thất tiềm ẩn liên quan đến tính bền vững. Nghiên cứu cho thấy, các đánh giá rủi ro tín dụng thường không tính đầy đủ đến các tình huống dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, do đó làm méo mó khả năng sinh lời đối với một số thỏa thuận. Ngân hàng sẽ cần phải phát triển các phương pháp để định giá tốt hơn các rủi ro môi trường và xã hội có thể ảnh hưởng đáng kể đến dòng tiền và khả năng trả nợ của khách hàng. Cùng với việc định giá phù hợp với rủi ro, ngân hàng có thể phát triển các sản phẩm và quan hệ đối tác đổi mới để mở rộng cơ hội tài chính trong các lĩnh vực như công nghệ sạch, phát triển cộng đồng và cơ sở hạ tầng bền vững. Nhưng trong trường hợp thiếu các chính sách công hỗ trợ, các ngân hàng vì lợi nhuận sẽ do dự trong việc tích cực phân bổ lại vốn.

Các quy định mạnh mẽ hơn nhằm khắc phục điều này bằng cách bắt buộc công bố rủi ro khí hậu và xem xét các yếu tố ESG trong các yêu cầu về vốn (Sustainability Accounting Standards Board, 2021). Nhưng việc truyền tải chính sách sang thực tiễn một cách trơn tru vẫn còn gặp nhiều trở ngại. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính bền vững và ưu tiên cổ đông sẽ đòi hỏi các khung chính sách đáng tin cậy được hỗ trợ bởi dữ liệu vững chắc.

2.2. Đo lường và báo cáo các chỉ số ESG


Việc đo lường và công bố báo cáo ESG đáng tin cậy là một trở ngại lớn khác đối với các ngân hàng. Các tiêu chuẩn báo cáo vẫn chưa hoàn chỉnh, được áp dụng không nhất quán và thường gây nhầm lẫn cho khách hàng (UNEP FI, 2022). Chế độ báo cáo được áp dụng rộng rãi nhất là Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI), cung cấp hướng dẫn cho một loạt các số liệu tính bền vững. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ chọn báo cáo một số chỉ số cụ thể, khiến việc đánh giá hiệu quả một cách chính xác trở nên khó khăn.

Việc báo cáo phát thải khí nhà kính (GHG) hiện là thực hành chung đối với các ngân hàng lớn. Nhưng việc xác minh dữ liệu vẫn còn hạn chế, với hầu hết các công bố ESG không được kiểm toán. Theo dõi tốt hơn lượng GHG phát sinh từ dòng vốn chảy vào các ngành công nghiệp cường độ carbon cao có thể tác động sâu sắc đến nỗ lực của ngân hàng trong việc giảm dấu chân carbon.

Định lượng các chỉ số xã hội liên quan đến thực tiễn lao động, đa dạng và hòa nhập tài chính cũng gặp phải tính chủ quan và dữ liệu không đầy đủ. Tính chủ quan có trong việc chấm điểm các chỉ số ESG định tính làm cho việc đo lường một cách vững chắc trở nên thách thức. Một đánh giá toàn diện của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế kết luận rằng, thiếu các tiêu chuẩn công bố ESG nhất quán, bắt buộc làm giảm khả năng của thị trường và các cơ quan quản lí trong việc đánh giá và so sánh chính xác tính bền vững của các ngân hàng (ISSB, 2022).

Xây dựng một hệ thống báo cáo hiệu quả và nhất quán là điều thiết yếu để củng cố các mục tiêu ESG trong lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng nên ủng hộ việc công bố bền vững bắt buộc trên tất cả các chỉ số ESG trọng yếu, dựa trên sự thành công của các tiêu chuẩn báo cáo tài chính (IFAC, 2023). Hợp tác với các cơ quan quản lí, các công ty kế toán và các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn để phát triển các khung ESG thống nhất phù hợp với ngành Ngân hàng sẽ giúp tối đa hóa tính minh bạch và khả năng so sánh. Kiểm toán và kiểm soát nội bộ cũng đóng vai trò thiết yếu để đảm bảo tính toàn vẹn của báo cáo tính bền vững.

2.3. Thay đổi văn hóa tổ chức

Chuyển đổi sang cách tiếp cận dựa trên ESG đòi hỏi sự thay đổi văn hóa và tổ chức sâu sắc trong các ngân hàng. Sự ủng hộ của lãnh đạo thiết lập tôn chỉ, nhưng có thể không chuyển sang trơn tru thành những thay đổi trong các hoạt động hàng ngày. Những rào cản chính bao gồm sự trì trệ trong quản lí cấp trung, thiếu động lực phù hợp với các mục tiêu ESG và thiếu cấu trúc trách nhiệm giải trình.

Công ty khảo sát toàn cầu Accenture cho thấy, mặc dù 89% giám đốc điều hành cấp cao ngành ngân hàng coi tính bền vững là quan trọng, nhưng chỉ có 60% đã thực hiện các hành động cụ thể để hội nhập các ưu tiên ESG vào chiến lược kinh doanh (Accenture, 2021).

Sự thiếu hụt chiến lược này một phần bắt nguồn từ các ưu tiên cạnh tranh. Các ngân hàng đã phải đối mặt với vô số yêu cầu, từ an ninh mạng đến số hóa, ngoài các chương trình ESG mới. Định hướng ngắn hạn và nhấn mạnh quá mức vào tiếp thị hơn là thay đổi thực chất vẫn là những cạm bẫy cho các chương trình bền vững của ngân hàng.

Quản lí thay đổi văn hóa doanh nghiệp hiệu quả là cần thiết để vượt qua những rào cản này. HSBC cung cấp ví dụ về việc liên kết thù lao của ban điều hành với tiến độ giảm phát thải tài chính (HSBC, 2022). Lãnh đạo các ngân hàng có thể đặt ra tầm nhìn, nhưng khuyến khích hiệu quả tính bền vững ở tất cả các bộ phận kinh doanh là điều thiết yếu. Cần thành lập các đội ngũ chuyên trách để phối hợp chiến lược ESG giữa các chức năng giúp nhúng các mục tiêu chung. Báo cáo nội bộ và bên ngoài thường xuyên về các sáng kiến bền vững thúc đẩy trách nhiệm giải trình. Cuối cùng, các ngân hàng chuyển đổi thành công sang nền kinh tế carbon thấp đòi hỏi một lực lượng lao động cam kết và các nhà quản lí am hiểu ESG.

2.4. Quản lí các rủi ro danh tiếng

Với các vấn đề nhạy cảm như biến đổi khí hậu, các ngân hàng phải đối mặt với những rủi ro danh tiếng gia tăng liên quan đến chính sách và hiệu quả ESG của họ. Các chiến dịch của nhà hoạt động môi trường và sự chú ý của truyền thông đến các liên kết của ngân hàng với ô nhiễm hoặc phá rừng ngày càng gây áp lực lên ngành tài chính - ngân hàng (O’Connell và cộng sự, 2022). Những tranh cãi gần đây tại các ngân hàng như Chase và Wells Fargo cho thấy hậu quả của những sai sót nhận thức trong việc cân bằng nguyên tắc với thực tiễn (Chris and Hannah, 2022). Giảm thiểu khoảng cách giữa tham vọng ESG với thực tế là điều thiết yếu để duy trì lòng tin của công chúng và giảm thiểu các rủi ro tài chính đối với thương hiệu và giá trị thị trường của ngân hàng.

Khi tính bền vững trở thành xu hướng chủ đạo, các cáo buộc phóng đại thành tích ESG cho mục đích tiếp thị đã gia tăng (Laufer, 2003). Các ngân hàng phải chứng minh các tham vọng về mục tiêu phát thải ròng bằng "0" hoặc các tiêu chuẩn đạo đức thông qua dữ liệu vững chắc, tiêu chí minh bạch và các hành động rõ ràng (UNEP FI, 2022). Xác minh độc lập về tiến độ có thể giúp xác thực các tuyên bố (Moorgate Benchmarks, 2021). Việc tham vấn liên tục với khách hàng, nhà đầu tư và các tổ chức xã hội dân sự để thu thập phản hồi giúp đảm bảo các chính sách thích ứng phù hợp với các kì vọng đang phát triển.

Tuy nhiên, tính linh hoạt cũng được yêu cầu khi áp dụng các tiêu chí đạo đức cho các quyết định đầu tư và cho vay. Các ngân hàng không thể khả thi trong việc rút lui khỏi tất cả các khách hàng gây một số mức độ tác hại về môi trường hoặc xã hội. Tham vấn xây dựng thông qua các khoản vay liên kết với tính bền vững, tiếp theo là leo thang nếu không có tiến bộ đủ, có thể thúc đẩy thay đổi tích cực hơn so với các chính sách loại trừ mù quáng (Morgan Stanley, 2023). Phân biệt các mức độ rủi ro khác nhau, cùng với không khoan nhượng đối với các hành vi vi phạm môi trường và nhân quyền quy mô lớn có thể giúp các ngân hàng cân bằng yêu cầu này.

3. Bài học từ các ngân hàng toàn cầu

Trong khi các ngân hàng Việt Nam cân nhắc việc tích hợp ESG, thực tiễn tốt nhất từ các đối tác toàn cầu cung cấp một số bản vẽ cho việc đẩy nhanh lãnh đạo tài chính bền vững.

Deutsche Bank nhắm đến việc triển khai 200 tỉ Euro trong tài chính bền vững vào năm 2025 trong khi cân đối danh mục đầu tư với các kịch bản nâng nhiệt độ 1,50C (Deutsche Bank, 2023). Từ khâu huy động vốn đến phân tích tín dụng, tiêu chí ESG thúc đẩy các quyết định. Deutsche Bank cũng phát hành trái phiếu xanh để tài trợ cho năng lượng tái tạo và theo dõi phát thải tài chính. Thu nhập của ban điều hành liên kết trực tiếp với các mục tiêu giảm carbon củng cố trách nhiệm giải trình.

Ngân hàng Standard Chartered cũng đặt ra mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2030 cho hoạt động tài chính trong các lĩnh vực điện, thép và hàng không (Standard Chartered, 2023). Ngân hàng này đã giới thiệu một đơn vị tài chính chuyển đổi giúp các khách hàng phát thải carbon cao phát triển các kế hoạch giảm phát thải khả thi. Năm 2022, Standard Chartered đã từ chối cung cấp 3,5 tỉ USD cho các dự án nhiên liệu hóa thạch nhằm duy trì sự phù hợp.

Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự lãnh đạo đến từ các hệ sinh thái chính sách sáng tạo của Singapore và Ấn Độ. Dưới sự lãnh đạo của ngân hàng trung ương, các khuôn khổ ESG nghiêm ngặt hiện cai quản các luồng vốn trong khi các tiêu chuẩn công bố nâng cao tính minh bạch (MAS, 2021; RBI, 2022). Các ngân hàng đã đối phó thông qua các cải cách về quản trị, phòng nghiên cứu đổi mới và báo cáo.

Ngân hàng DBS Singapore nhắm đến việc duy trì tỉ trọng 50% tài chính xanh trong tổng danh mục sau khi sắp xếp các giao dịch bền vững trị giá 80 tỉ USD kể từ năm 2019 (DBS, 2023). Ngân hàng này là những người tiên phong trong các khoản vay liên kết tính bền vững, đánh giá các lộ trình chuyển đổi của khách hàng vượt ra ngoài các xếp hạng và tài trợ cơ sở hạ tầng giao thông xanh. Một nhóm cấp điều hành giám sát việc thực thi ESG trong khi thu nhập nhân viên liên kết với các KPI ESG.

Ngân hàng Yes của Ấn Độ đã đạt mức phát thải carbon ròng bằng "0" vào năm 2020 bù đắp phát thải từ hoạt động nội bộ và các giao dịch của khách hàng (Yes Bank, 2022). Hội đồng Tính bền vững Yes của họ tiến hành phân tích tính trọng yếu vào các rủi ro ESG tạo điều kiện cho sự phát triển chiến lược. YES FinGreen đã đánh giá hơn 2,5 tỉ USD đề xuất tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên các tiêu chí ESG vào năm 2023.

4. Một số khuyến nghị cho các ngân hàng tại Việt Nam

Báo cáo Phát triển bền vững 2022 của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) phát hành ngày 27/10/2023 là báo cáo đầu tiên về phát triển bền vững của các ngân hàng tại Việt Nam. Báo cáo bao gồm các chỉ số bền vững về Môi trường (E), Xã hội (S) và Quản trị doanh nghiệp (G) dựa trên các tiêu chuẩn toàn cầu và Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc. ESG được tích hợp vào chiến lược của ACB, bao gồm tăng trưởng kinh doanh, nâng cao trải nghiệm khách hàng và thu hút nhân tài. ACB cam kết bảo vệ môi trường nhằm thu gom 300 tấn rác nhựa từ năm 2023 đến năm 2025. Báo cáo phản ánh những nỗ lực của ACB để cân bằng kết quả ngắn hạn với phát triển bền vững dài hạn, đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội (ACB, 2023).

Hiện thực hóa các tham vọng ESG đòi hỏi nỗ lực phối hợp giữa các cơ quan quản lí và ngân hàng về các tiêu chuẩn, nền tảng và động lực. Các ngân hàng khi đó có thể tận dụng các khoản đầu tư liên kết với tính bền vững của Việt Nam. Dưới đây là một số khuyến nghị cho các ngân hàng tại Việt Nam vượt qua thách thức để đạt được các mục tiêu ESG:

Thứ nhất, Chính phủ ban hành chính sách và quy định về ESG: Việc có khung khổ pháp lí sẽ tạo động lực cho các ngân hàng thay đổi, tránh tình trạng tự nguyện. Các quy định của châu Âu về công bố thông tin ESG đã có tác động lớn tới hoạt động của ngân hàng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, thiếu hành động chính sách sẽ khiến hoạt động ESG của doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức. Việc Chính phủ Anh ban hành luật yêu cầu công bố thông tin khí hậu đã thúc đẩy các ngân hàng và doanh nghiệp chủ động hơn trong quản trị rủi ro khí hậu (Campiglio và cộng sự, 2023). Chính phủ cần ban hành các chính sách định hướng vốn đầu tư xanh như đánh thuế carbon.

Thứ hai, NHNN đưa yếu tố ESG vào quy định chính thức: Việc này sẽ khuyến khích các ngân hàng chủ động quản trị rủi ro ESG, coi đây là một phần quan trọng trong hoạt động, chứ không chỉ là hình thức. Các ngân hàng sẽ phải tuân thủ nếu muốn đáp ứng các tiêu chuẩn hoạt động. Một số ngân hàng trung ương đã ban hành quy định bắt buộc các ngân hàng phải cân nhắc rủi ro môi trường khi cho vay (Khan và cộng sự, 2020). Ngân hàng trung ương cần đưa ESG vào quy định đánh giá an toàn vốn ngân hàng để khuyến khích điều chỉnh rủi ro (Azzam và cộng sự, 2020).

Thứ ba, xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động ESG: Điều này thể hiện sự cam kết của lãnh đạo, đồng thời có tác động lan tỏa trong toàn tổ chức. Việc gắn kết với thù lao sẽ tạo động lực cho nhân viên thực hiện. Các nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa chiến lược ESG với hiệu quả ESG và tài chính của ngân hàng (Nandy và Lodh, 2012; Wu và Shen, 2013). Việc lồng ghép ESG vào chiến lược ngân hàng có tác động tích cực tới văn hóa và hoạt động của ngân hàng (gắn kết tiền thưởng với KPIs ESG sẽ tạo động lực thực thi mạnh mẽ hơn (HSBC, 2022).

Thứ tư, đầu tư xây dựng hệ thống đo lường và công bố ESG: Bài học từ các ngân hàng quốc tế cho thấy, việc thiếu hệ thống ESG chuẩn hóa, nhất quán sẽ dẫn tới thiếu minh bạch và khó giám sát. Do đó, cần ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống này. Các nghiên cứu cho thấy, thiếu hệ thống ESG đầy đủ dẫn đến thông tin không nhất quán, khó so sánh giữa các ngân hàng (Dahlmann và cộng sự, 2019). Xây dựng hệ thống thu thập và công bố dữ liệu ESG sẽ nâng cao tính minh bạch, giám sát tuân thủ các quy định về ESG (European Banking Authority (EBA), 2021). Các chuẩn mực ESG quốc tế như GRI, SASB giúp đảm bảo tính nhất quán và khả năng so sánh của các thông tin ESG (Global Sustainability Standards Board, 2022).

Thứ năm, tổ chức đào tạo nâng cao nhận thức về ESG: Nhận thức và năng lực về ESG còn hạn chế là rào cản lớn đối với các ngân hàng. Chỉ có đào tạo mới giúp thay đổi nhận thức và thúc đẩy áp dụng ESG. Nghiên cứu của Del Giudice (2017) chỉ ra rằng, nhận thức hạn chế về ESG là rào cản lớn nhất đối với việc áp dụng ESG. Các chương trình đào tạo sẽ giúp nâng cao hiểu biết và thay đổi nhận thức của cán bộ ngân hàng về ESG (Dafermos, 2022). Đào tạo không chỉ cấp lãnh đạo mà cả cấp trung gian quản lí để tránh tình trạng lệch pha trong triển khai.

Thứ sáu, phát triển các sản phẩm tín dụng xanh: Thông qua các sản phẩm này, ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh xanh, bền vững hơn. Các ngân hàng quốc tế đang có nhiều sản phẩm xanh phù hợp với thị trường Việt Nam. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, hoạt động tín dụng xanh có tác động tích cực đến môi trường do thúc đẩy các hoạt động sản xuất sạch hơn (Neama và cộng sự, 2023; Yao và cộng sự, 2021). Các ngân hàng cần nghiên cứu để phát triển các sản phẩm cho vay ưu đãi lãi suất cho các dự án năng lượng sạch, công nghệ xanh (Campiglio, 2016). Sản phẩm tín dụng xanh sẽ góp phần thực hiện chiến lược ESG của ngân hàng (Al-Qudah và cộng sự, 2023).

Thứ bảy, tham gia các sáng kiến và hiệp ước quốc tế về ESG: Việc này giúp các ngân hàng tiếp cận xu hướng và kinh nghiệm quốc tế, đồng thời nâng cao uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế, thu hút đầu tư. Các hiệp ước như TCFD, NZBA giúp ngân hàng tiếp cận các xu hướng và kinh nghiệm tốt nhất về ESG (Schoenmaker và Van Tilburg, 2016). Tham gia các cam kết quốc tế sẽ nâng cao uy tín và thương hiệu của ngân hàng trên trường quốc tế (UNEP FI, 2022).

5. Kết luận

Nhìn chung, đạt được các mục tiêu ESG tham vọng trong lĩnh vực ngân hàng đặt ra nhiều thách thức đa dạng. Tuy nhiên, thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí, hiệp hội ngân hàng và chính các ngân hàng, các mục tiêu ESG có thể đạt được.

Cụ thể, Chính phủ cần đưa ra các chính sách và quy định bắt buộc liên quan tới ESG để tạo động lực cho các ngân hàng. NHNN cũng cần điều chỉnh các quy định hiện hành để khuyến khích ngân hàng chủ động áp dụng ESG. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần chủ động xây dựng chiến lược, đầu tư công nghệ và phát triển sản phẩm, dịch vụ xanh để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Những nỗ lực tích cực và đồng bộ của các bên liên quan sẽ giúp ngành Ngân hàng Việt Nam dần khắc phục được các thách thức và đưa mục tiêu ESG trở thành trọng tâm trong chiến lược phát triển thập kỉ sắp tới. Với chiến lược có chủ đích và nỗ lực phối hợp, các ngân hàng có thể vượt qua những trở ngại để hoàn toàn tích hợp các yếu tố ESG như một ưu tiên cốt lõi trên tất cả các lĩnh vực kinh doanh.

Tài liệu tham khảo:

1. Accenture. (2021). The green behind the cloud. https://www.accenture.com/us-en/insights/strategy/green-behind-cloud

2. Al-Qudah, A.A., Hamdan, A., Al-Okaily, M. (2023). The impact of green lending on credit risk: evidence from UAE’s banks. Environmental Science and Pollution Research 30, 61381–61393. https://doi.org/10.1007/s11356-021-18224-5

3. Azzam, M., AlQudah, A., Abu Haija, A., & Shakhatreh, M. (2020). The association between sustainability disclosures and the financial performance of Jordanian firms. Cogent Business & Management, 7(1), 1859437.

4. Bank of America. (2023). Countdown to 2050.. https://about.bankofamerica.com/en/making-an-impact/net-zero-carbon-emissions-by-2050

5. Campiglio, E. (2016). Beyond carbon pricing: The role of banking and monetary policy in financing the transition to a low-carbon economy. Ecological economics, 121, 220-230. https://doi.org/10.1016/j.ecolecon.2015.03.020.

6. Campiglio, E., Daumas, L., Monnin, P., & von Jagow, A. (2023). Climate related risks in financial assets. Journal of Economic Surveys, 37(3), pages 950-992. https://doi.org/10.1111/joes.12525

7. Chris, P. and Hannah, L. (2022). Wells Fargo to pay $3.7 billion for illegal conduct that harmed customers. Reuters. https://www.reuters.com/business/finance/us-cfpb-orders-wells-fargo-pay-37-bln-penalties-mismanagement-2022-12-20/

8. Dafermos, Y. (2022). Climate change, central banking and financial supervision: beyond the risk exposure approach. The future of central banking, 175-194. https://books.google.com.vn/books?id=qKKCEAAAQBAJ&printsec=frontcover&hl=vi

9. Dahlmann, F., Branicki, L., & Brammer, S. (2019). Managing carbon aspirations: The influence of corporate climate change targets on environmental performance. Journal of business ethics, 158, pages 1-24. https://doi.org/10.1007/s10551-017-3731-z

10. DBS. (2023). DBS Sustainability Report. https://www.dbs.com/sustainability/reports-and-disclosures/sustainability-report

11. Del Giudice M., Khan Z., De Silva M., Scuotto V., Caputo F., Carayannis E. (2017). The microlevel actions undertaken by owner-managers in improving the sustainability practices of cultural and creative small and medium enterprises: A United Kingdom–Italy comparison. Journal of Organizational Behavior, 38(9), 1396–1414. https://doi.org/10.1002/job.2237

12. Deutsche Bank. (2023). Non-Financial Report 2022. https://agm.db.com/files/documents/2023/Non-Financial-Report-2022.pdf

13. European Banking Authority (EBA). (2021). EBA Report on ESG risks management and supervision. https://www.eba.europa.eu/publications-and-media/press-releases/eba-publishes-its-report-management-and-supervision-esg-risks

14. Funds Europe. (2022). Green bonds market hits $2 trillion milestone. https://www.funds-europe.com/news/green-bonds-market-hits-2-trillion-milestone

15. HSBC. (2022). Net zero in our operations. https://www.hsbc.com/who-we-are/our-climate-strategy/net-zero-in-our-operations

16. International Federation of Accountants (IFAC). (2023). Policy Proposal on IFRS Sustainability Disclosure Standards. https://www.ifrs.org/issued-standards/ifrs-sustainability-standards-navigator/

17. International Sustainability Standards Board (ISSB) (2022). Prototype climate-related disclosure standard. https://www.ifrs.org/content/dam/ifrs/groups/trwg/trwg-climate-related-disclosures-prototype.pdf

18. IRIS+. (2022). IRIS+ System by GIIN. https://iris.thegiin.org/

19. Khan, H. Z., Bose, S., & Johns, R. (2020). Regulatory influences on CSR practices within banks in an emerging economy: do banks merely comply?. Critical Perspectives on Accounting, 71, 102096. https://doi.org/10.1016/j.cpa.2019.102096

20. Laufer, W.S. (2003). Social Accountability and Corporate Greenwashing. Journal of Business Ethics, 43, pages 253-261. https://doi.org/10.1023/A:1022962719299

21. MAS. (2021). Guidelines on Environmental Risk Management for Banks. https://www.mas.gov.sg/regulation/guidelines/guidelines-on-environmental-risk-management

22. Moorgate Benchmarks. (2021). Consultation regarding the Fidelity Thematic ESG-Tilted Index Family. https://moorgatebenchmarks.com/consultation-regarding-the-fidelity-thematic-esg-tilted-index-family/

23. Morgan Stanley. (2023). Sustainability at Morgan Stanley. https://www.morganstanley.com/about-us/sustainability-at-morgan-stanley

24. Nandy, M., & Lodh, S. (2012). Do banks value the eco-friendliness of firms in their corporate lending decision? Some empirical evidence. International Review of Financial Analysis, 25, 83-93. https://doi.org/10.1016/j.irfa.2012.06.008

25. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB). (2023). Báo cáo Phát triển bền vững. https://acb.com.vn/acbwebsite/files/ACB%20ESG%20Report%202022%20(Final).pdf

26. Neama, N. H., Abbood, R. H., & Abbood, I. H. (2023, May). The Role of Green Banking in Achieving Sustainable Development. In Conference on Sustainability and Cutting-Edge Business Technologies (pages. 178 - 186). Cham: Springer Nature Switzerland.

27. O›Connell, L., Stephens, C., Betz, M., & Shepard, J. (2022). Banking on Climate Chaos: Fossil Fuel Finance Report 2022. Rainforest Action Network. https://www.ran.org/wp-content/uploads/2022/03/BOCC_2022_vSPREAD-1.pdf

28. OECD. (2020). OECD Due Diligence Guidance for Responsible Business Conduct. https://www.oecd.org/investment/due-diligence-guidance-for-responsible-business-conduct.htm

29. Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD). (2022). Corporate finance and corporate governance in ASEAN economies. https://www.oecd.org/corporate/background-report-corporate-finance-and-corporate-governance-ASEAN-economies.pdf

30. Rainforest Action Network. (2022). Banking on climate chaos. https://www.ran.org/wp-content/uploads/2022/03/BOCC_2022_vSPREAD-1.pdf

31. RBI. (2022). Reserve Bank of India launches Sustainable Banking Network.. https://rbi.org.in/scripts/SustainableFinanceGroup.aspx

32. Schoenmaker, D., Van Tilburg, R. (2016). What Role for Financial Supervisors in Addressing Environmental Risks?. Comparative Economic Studies, 58, pages 317 - 334. https://doi.org/10.1057/ces.2016.11

33. Standard Chartered. (2023). Our position statements - Climate change. https://www.sc.com/en/about/sustainability/position-statements/climate-change

34. Sustainability Accounting Standards Board (SASB). (2021). SASB Standards: Financial Sector. https://www.sasb.org/wp-content/uploads/2017/09/Financials-ExposureDraft-Redline.pdf

35. UNEP FI. (2022). Financial Health & Inclusion Commitment. https://www.unepfi.org/banking/commitments/commitment-to-financial-health-and-inclusion/

36. World Economic Forum (WEF). (2022). Commitment to ESG Reporting is Driving Change within Global Corporations, New Study Shows. https://www.weforum.org/press/2022/09/commitment-to-esg-reporting-is-driving-change-within-global-corporations-new-study-shows/

37. Wu, M. W., & Shen, C. H. (2013). Corporate social responsibility in the banking industry: Motives and financial performance. Journal of Banking & Finance, 37(9), 3529-3547. https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.04.023

38. Yao, S., Pan, Y., Sensoy, A., Uddin, G. S., & Cheng, F. (2021). Green credit policy and firm performance: What we learn from China. Energy Economics, 101, 105415. https://doi.org/10.1016/j.eneco.2021.105415

39. Yes Bank. (2022). ESG Disclosures. https://www.yesbank.in/about-us/sustainability-at-yes-bank/esg-disclosures


TS. Nguyễn Minh Sáng
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài viết đề cập đến vai trò then chốt của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và xu thế toàn cầu hóa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động toàn ngành. Bài viết đồng thời phân tích nhiệm vụ, thành tựu, khó khăn trong quá trình này và đề xuất giải pháp giúp ngành Ngân hàng thực hiện sứ mệnh phát triển trong thời kỳ mới.
Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thương mại điện tử phát triển mạnh sau đại dịch Covid-19 nhưng kéo theo nhiều rủi ro về bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, gây ra tình trạng xâm phạm, đánh cắp dữ liệu và gia tăng tội phạm mạng. Do đó, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế số. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ dữ liệu, chỉ ra những hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Với quyết tâm từ các cấp lãnh đạo, nỗ lực của ngành Ngân hàng và ý thức cảnh giác của mỗi người dân, chúng ta hoàn toàn có thể giảm thiểu mối đe dọa từ deepfake, góp phần bảo vệ an ninh tài chính quốc gia trong kỷ nguyên số hóa.
Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Xem thêm
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng