Những nhân tố đóng góp vào điểm sáng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm 4,4%, thì mức tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng GDP) năm 2020 của Việt Nam đạt 2,91% được xem là điểm sáng đáng ghi nhận. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế ...
aa

Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm 4,4%, thì mức tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng GDP) năm 2020 của Việt Nam đạt 2,91% được xem là điểm sáng đáng ghi nhận.

Mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong nhiều năm, nhưng so với bức tranh kinh tế toàn cầu, Việt Nam được xem là điểm sáng của kinh tế toàn cầu, là một trong 4 nền kinh tế có mức tăng trưởng dương trên thế giới1. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, sự hồi phục của kinh tế Việt Nam chứng tỏ những tiến bộ đến từ nội lực trong nước.




Xuất khẩu phục hồi nhanh giúp Việt Nam trở thành điển hình cho thương mại toàn cầu năm 2020

1. Một số điểm nổi bật trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020

Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế dương

Tăng trưởng kinh tế dương của Việt Nam là điểm sáng rõ nét nhất trong năm 2020. Việt Nam cũng được đánh giá có nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong khu vực với mức tăng trưởng đạt 2,91%2, là một trong 4 nền kinh tế trên thế giới có được sự tăng trưởng về GDP bình quân đầu người (bao gồm Việt Nam, Đài Loan, Ai Cập và Trung Quốc). Quy mô GDP Việt Nam đạt 340,6 tỷ USD năm 2020, đứng thứ 4 Đông Nam Á (vượt Singapore với 337,5 tỷ USD, Malaysia với 336,3 tỷ USD; đứng sau Indonesia 1.088,8 tỷ USD, Thái Lan 509,2 tỷ USD và Philippines 367,4 tỷ USD). Mức GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3.500 USD xếp thứ 6 trong khu vực ASEAN, sau Singapore (58.483,9 USD), Brunei (23.116,7 USD), Malaysia (10.192,4 USD), Thái Lan (7.295,1 USD) và Indonesia (4.038,4 USD). Mức GDP bình quân đầu người của Việt Nam dự báo đạt 5.211,90 USD (vào năm 20253). Chỉ số phát triển bền vững năm 2020 của Việt Nam tăng 39 bậc so với năm 2016, xếp thứ 49/166 quốc gia.

Theo Báo cáo phát triển bền vững năm 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được mục tiêu hành động của Liên hợp quốc4, trong khi Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Singapore đều chưa đạt.

Hai là, thặng dư thương mại hàng hóa cao

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam có được nhờ thúc đẩy thặng dư thương mại đạt kỷ lục, gần 17 tỷ USD trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm. Lạm phát được giữ ổn định dưới 4% (Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2020 tăng 3,23% - đạt mục tiêu Quốc hội đề ra là giữ CPI bình quân tăng dưới 4%). Chỉ số sản xuất công nghiệp và doanh thu bán lẻ đều tăng gấp đôi.

Thặng dư thương mại hàng hóa đạt cao nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng hơn trong thời kỳ đại dịch Covid-19 so với các lĩnh vực phụ thuộc vào tiêu dùng nội địa. Xuất khẩu chính là động lực cho tăng trưởng GDP của Việt Nam. Tính chung cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt khoảng 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2%. Hy vọng về lâu dài, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu này sẽ vẫn giữ được đà tăng và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp nội địa sẽ ngang bằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế Việt Nam cũng ít phụ thuộc vào du lịch hơn so với các nước Đông Nam Á khác, do đó, ít chịu sức ép hơn khi du lịch quốc tế bị đình trệ.

Ba là, sự hồi phục của ngành chế biến, chế tạo

Các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế và thương mại dịch vụ tiếp tục khởi sắc, lần lượt tăng 8,3% và 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Điều quan trọng là các chỉ số này đã liên tục trong xu thế tăng từ mức sụt giảm mạnh thời kỳ thực hiện giãn cách xã hội do tác động của đại dịch Covid-19, làm tăng niềm tin rằng: nền kinh tế đã đi qua thời kỳ khó khăn nhất.

Lĩnh vực chế biến, chế tạo tiếp tục được đầu tư thường xuyên tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển của khu vực chế biến, chế tạo đã giúp nền kinh tế trở thành điểm trung chuyển của hàng hóa, chẳng hạn các hàng hóa điện tử trung gian. Quá trình cổ phần hóa khu vực doanh nghiệp Nhà nước, chiếm 1/3 nền kinh tế, sẽ giúp cải thiện năng suất lao động khu vực chế biến chế tạo và tăng trưởng kinh tế. Các chỉ số sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ đều tăng gấp đôi. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân năm 2020, CPI tăng 3,23% so với năm 2019. Có thể nói, năm 2020 được coi là năm thành công trong kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, mức thâm hụt ngân sách và nợ công khá cao, có thể làm cho nền kinh tế dễ bị tác động hơn bởi những bất ổn kinh tế toàn cầu - điều này sẽ ảnh hưởng tới khu vực chế biến, chế tạo.

Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao

Việt Nam có lợi thế hai năm liên tiếp nhận dòng vốn FDI tăng mạnh. Tổng vốn FDI đổ vào Việt Nam đạt 35 tỷ USD trong năm 2018 và tăng lên 38 tỷ USD trong năm 2019, cao nhất trong giai đoạn 10 năm (2009 - 2019). Các điều kiện kinh tế - chính trị ổn định giúp Việt Nam tiếp tục thu hút FDI. Tổng số vốn FDI cam kết chỉ giảm khoảng 19% trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu dự báo giảm từ 30 - 40% theo đánh giá của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD). Dòng vốn FDI đăng ký mới vào Việt Nam (bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) vẫn ở mức cao, đạt 28,53 tỷ USD năm 2020. Luật Đầu tư tại Việt Nam đã được sửa đổi chủ yếu nhằm tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư bằng cách giảm các thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho dòng vốn FDI.

Năm là, đầu tư tư nhân tăng trưởng cao

Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Khu vực kinh tế tư nhân (doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể) đóng góp gần 40% GDP, là mức đóng góp cao nhất trong các thành phần kinh tế đối với tăng trưởng GDP của Việt Nam. Nếu đầu tư tư nhân (không tính hộ kinh doanh cá thể) tăng 1% giúp GDP của Việt Nam tăng trưởng thêm khoảng trên 0,15%, là động lực tăng trưởng quan trọng góp phần khôi phục kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Việt Nam chủ trì lễ ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tháng 11/2020 sẽ là đòn bẩy giúp tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam với các nước tham gia Hiệp định.


Nhờ thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của Covid-19, nền kinh tế Việt Nam không những duy trì tăng trưởng GDP dương, mà còn tăng trưởng cao hơn bất kỳ quốc gia Ðông Nam Á khác. Bên cạnh việc kiểm soát đại dịch Covid-19 thành công, xuất khẩu phục hồi nhanh giúp Việt Nam (cùng với Trung Quốc) trở thành những điển hình cho thương mại toàn cầu.



Đại dịch Covid-19 là cơ hội thay đổi phương thức phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng áp dụng nhiều hơn kinh tế số

2. Nhân tố thúc đẩy thành công kinh tế của Việt Nam

Kinh tế Việt Nam có được mức tăng trưởng dương là nhờ năng lực của cả khu vực kinh tế trong nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Việt Nam không những kiểm soát tốt được đại dịch Covid-19, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao mà Chính phủ còn sử dụng các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân, thúc đẩy phục hồi sản xuất kinh doanh. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt được năm 2020 là nhờ sự đóng góp của những nhân tố cơ bản sau:

Thứ nhất, chính sách phù hợp với thị trường

Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách, trong đó chính sách tiền tệ đã khẳng định được vai trò lưu thông “dòng máu” của nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó khăn, ổn định sản xuất. Các chính sách được Chính phủ ban hành thể hiện sự quyết liệt và sáng tạo của Chính phủ. Những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nguồn lực để vượt qua khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19.

Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, góp phần hạ mặt bằng lãi suất hỗ trợ nền kinh tế. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của các chính sách, trong đó có chính sách tiền tệ là duy trì hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế tối đa tình trạng phá sản; duy trì việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp, mất thu nhập; đảm bảo hệ thống ngân hàng - huyết mạch của nền kinh tế - duy trì được trạng thái ổn định, vận hành tốt, đủ năng lực vực dậy nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Chính sách tiền tệ hỗ trợ khu vực sản xuất, kinh doanh thông qua việc Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ các ngân hàng thương mại cơ cấu lại các khoản nợ hiện hành cho các khách hàng (giảm lãi suất đối với các khoản nợ hiện hành, đảo nợ…); miễn, giảm lãi trong thời kỳ doanh nghiệp không có doanh thu. Cùng với hệ thống ngân hàng lành mạnh, dự trữ ngoại hối tăng đã tạo nền tảng tốt để ứng phó những “cú sốc” từ bên ngoài. Việc bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước và cán cân thanh toán thặng dư là những điều kiện thuận lợi, hỗ trợ giữ ổn định tỷ giá, bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia.

Thứ hai, thành công trong công tác chống dịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu và mạnh nhất là khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, Việt Nam nằm trong số ít các quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh nhờ có cách làm đúng, kịp thời, hiệu quả, chi phí thấp, đặc biệt là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. So với nhiều quốc gia giàu có hơn, cơ sở hạ tầng y tế của Việt Nam về cơ bản còn thiếu và yếu, nhưng Việt Nam được hầu hết các nước ca ngợi về các biện pháp y tế công cộng, nhanh chóng kiểm soát được số ca lây nhiễm Covid-19 với số ca mắc Covid-19 và tỉ lệ tử vong thấp.

Nhờ thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của Covid-19, nền kinh tế Việt Nam không những duy trì tăng trưởng GDP dương, mà còn tăng trưởng cao hơn bất kỳ quốc gia Ðông Nam Á khác. Bên cạnh việc kiểm soát đại dịch Covid-19 thành công, xuất khẩu phục hồi nhanh giúp Việt Nam (cùng với Trung Quốc) trở thành những điển hình cho thương mại toàn cầu.

Thứ ba, tính linh hoạt và khả năng ứng phó của doanh nghiệp

Để khuyến khích hoạt động của doanh nghiệp, Chính phủ đưa ra các biện pháp giảm thuế, hoãn nộp thuế và miễn phí sử dụng đất đối với các doanh nghiệp. Việt Nam đã giữ ổn định tăng trưởng trong suốt giai đoạn 2016 - 2019, giúp tạo niềm tin với doanh nghiệp. Tập trung phát triển khối doanh nghiệp tạo nền tảng khá bền vững và giúp giữ được ổn định nền kinh tế. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã dùng nhiều cách để vượt qua khó khăn như: Chuyển đổi sản phẩm, linh hoạt trong tiếp cận với khách hàng, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là sự “lên ngôi” của thương mại điện tử và kinh tế số5.

Kinh tế số Việt Nam sẽ trở nên bao trùm khi người tiêu dùng dần thích nghi với nền kinh tế số, các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ nhiều hơn bởi các nhà đầu tư cũng như các chương trình chuyển đổi số của Chính phủ. Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cơ hội thay đổi phương thức phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng áp dụng ngày càng nhiều hơn kinh tế số. Sự phát triển nhanh của kinh tế số sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội để cải thiện mạnh mẽ năng suất lao động tổng thể. Dự báo, kinh tế số đóng góp từ 7% - 16,5% trong 100% tốc độ tăng trưởng năng suất lao động tổng thể6 giai đoạn 2020 - 2030 của Việt Nam. Từ đó, Việt Nam có thể đạt được phát triển bền vững, đồng thời, chống đỡ được các cú sốc từ bên ngoài.

Bên cạnh các doanh nghiệp còn có sự góp sức của hàng chục triệu lao động phi chính thức (hộ gia đình, lao động tự do). Khi những hỗ trợ đến từ Chính phủ còn hạn chế thì doanh nghiệp phi chính thức là “bệ đỡ” tốt, tự bảo đảm được cuộc sống ở mức tối thiểu. Cùng với đó, “tài khoản tiết kiệm” của người dân giúp phần nào giảm được áp lực khi đại dịch Covid-19 bùng phát.

Rõ ràng, việc kiểm soát tốt đại dịch Covid-19, sự hồi phục của lĩnh vực chế biến, chế tạo, cùng với thương mại dịch vụ nội địa chính là động lực cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, sự thành công của Việt Nam, theo Asia Times, là do nền kinh tế Việt Nam ít phụ thuộc vào ngành dịch vụ du lịch so với các nước Đông Nam Á khác, nên tác động của dịch bệnh Covid-19 đến sự “sụp đổ” của ngành du lịch quốc tế đã không gây nhiều áp lực đối với kinh tế Việt Nam. Cùng với việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA) (tháng 6/2019) và ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực - RCEP (tháng 11/2020) giúp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khả quan hơn.

3. Đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam thời gian tới

Triển vọng kinh tế của Việt Nam trong trung hạn và dài hạn được đánh giá rất tích cực. Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 8 (2021 - 2025) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030), tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu năm 2021 là tập trung thực hiện hiệu quả 2 nhiệm vụ chính: vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát với mục tiêu GDP tăng khoảng 6 - 7% năm 20217; quy mô GDP đầu người tăng đạt khoảng 3.700 USD năm 2021 và đạt 5.212 USD năm 2025; trong khi đó, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%. Việt Nam là ngôi sao đang lên trong nền kinh tế khu vực nói riêng và kinh tế toàn cầu nói chung, mở đường để trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ nhờ đóng góp của 4 yếu tố cơ bản sau:

Thứ nhất, mức thu nhập trung bình tăng

Yếu tố thu nhập tăng được đánh giá là một trong 4 yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng của nhóm các nền kinh tế mới nổi (gồm Việt Nam, Indonesia và Philippines), mức thu nhập sẽ tăng khoảng 6 - 8% hàng năm8. Năm 2030, thu nhập bình quân các hộ gia đình tại một số nền kinh tế mới nổi khu vực ASEAN sẽ tăng gần gấp đôi so với năm 2019 và Việt Nam sẽ là thị trường có mức tăng thu nhập bình quân cao nhất. Tầng lớp trung lưu của Việt Nam đang hình thành - hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm 20269.

Thứ hai, tác động của yếu tố nhân khẩu học

Những yếu tố như dân số trẻ (70% dân số có độ tuổi dưới 35), công nghệ, lực lượng lao động đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam sẽ là động lực tăng trưởng của khu vực trong thập kỷ tới, thúc đẩy 98% sự gia tăng lực lượng lao động, đóng góp 70 - 80% số lượng người tiêu dùng mới.

Chi phí lao động của Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so với các khu vực khác của châu Á, chỉ bằng khoảng 50% so với Trung Quốc. Sự kết hợp giữa lực lượng lao động ngày càng mở rộng, chi phí lao động thấp và năng suất ngày càng cao của Việt Nam là những yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Quá trình đô thị hóa tiếp tục là động lực cho tăng trưởng dài hạn. Dự báo dân số thành thị của Việt Nam sẽ tăng trên 50% vào năm 2040 so với 32% năm 2013.

Thứ ba, thay đổi địa chính trị

Những thay đổi về địa chính trị cũng như chính sách tại Việt Nam sẽ mở ra cánh cửa cho FDI và nhiều cơ hội khác. Sự ổn định chính trị và kinh tế là nhân tố chính giúp thu hút thêm nhiều FDI cho Việt Nam. Các doanh nghiệp đa quốc gia đang tìm cách cân bằng chuỗi cung ứng nhằm đa dạng hóa rủi ro địa chính trị và tận dụng tối đa nguồn lao động giá rẻ. Điều này khiến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn, song cũng sẽ tạo ra nhiều thách thức khi chủ nghĩa bảo hộ ngày càng gia tăng.

Thứ tư, xu hướng kỹ thuật số

Đại dịch Covid-19 là cơ hội thay đổi phương thức phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng áp dụng nhiều hơn kinh tế số. Bởi kinh tế số chính là yếu tố then chốt thúc đẩy năng suất lao động tại Việt Nam. Năm 2015, tăng trưởng kinh doanh nhờ internet ở Việt Nam bùng nổ, đạt 38%. Giá trị nền kinh tế số đạt 12 tỷ USD (năm 2020) và dự báo đạt 43 tỷ USD (năm 2025), gồm các lĩnh vực là thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ. Kinh tế số Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bứt phá, trong khu vực chỉ đứng sau Indonesia.

Tuy nhiên, nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng tới triển vọng tăng trưởng của Việt Nam nếu đại dịch Covid-19 trên thế giới kéo dài. Căng thẳng thương mại toàn cầu, gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính sẽ trầm trọng thêm nếu đại dịch kéo dài. Khi đó, tiêu dùng nội địa tiếp tục ở mức thấp bởi thu nhập hộ gia đình và doanh nghiệp giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Triển vọng đầu tư không đồng đều, đầu tư tư nhân vẫn yếu và đầu tư nước ngoài liên quan đến thương mại tiếp tục giảm.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường trọng điểm, đồng thời, đẩy mạnh kích cầu thị trường nội địa. Tiếp tục ưu tiên đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công. Đây được xem là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2021 và là động lực tăng trưởng dài hạn.

Tóm lại, năm 2020, đại dịch Covid-19 giúp Việt Nam có được bài học kinh nghiệm là không phụ thuộc quá nhiều vào xuất nhập khẩu khiến nền kinh tế trở nên mong manh trước các cú sốc đến từ bên ngoài. Bởi vì, khi điều kiện kinh tế xấu đi tại các đối tác thương mại chủ chốt sẽ có tác động tới lĩnh vực xuất khẩu và khu vực chế biến, chế tạo. Vì vậy, Việt Nam cần phải đa dạng hóa hơn nữa các đối tác thương mại, từ đó giảm thiểu những cú sốc đến từ một số đối tác thương mại. Trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, thì chỉ số rào cản FDI của Việt Nam ở mức thấp so với nhóm các nước cạnh tranh (Malaysia và Indonesia) và sự ổn định kinh tế - chính trị của Việt Nam là những nhân tố chính thu hút thêm nhiều FDI, nhưng những quy định về thuế quan và thủ tục hành chính vốn còn rườm rà được coi là những "rào cản" cho sự tăng trưởng10. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp để đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hấp dẫn hơn nữa. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn được đứng trong Top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới, do đó, có nhiều triển vọng thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.


1 Bốn nền kinh tế tăng trưởng dương gồm: Việt Nam, Đài Loan, Ai Cập và Trung Quốc. Việt Nam là nước có mức tăng trưởng dương cao nhất so với 5 nền kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.

2 Đánh giá của Ngân hàng Thế giới năm 2020.

3 Triển vọng tích cực kinh tế Việt Nam 2020 - 2021; https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/trien-vong-tich-cuc-kinh-te-viet-nam-2020-2021-621765/

4 Theo chương trình này, các quốc gia phải đạt 5 mục tiêu, trong đó có các biện pháp giảm khí thải CO2, thúc đẩy năng lượng tái tạo và nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

5Kinh tế số Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bứt phá đứng thứ hai (sau Indonesia) so với các quốc gia khác trong khu vực, đạt 12 tỷ USD (năm 2020) và dự báo cán mốc 43 tỷ USD (năm 2025).

6 Kinh tế số là nhân tố then chốt thúc đẩy năng suất lao động; http://moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/kinh-te-so-la-nhan-to-then-chot-thuc-%C4%91ay-nang-suat-lao-%C4%91ong-19010-1001.html

7 Đánh giá của Bà Era Dabla-Norris, đại diện Vụ Châu Á - Thái Bình Dương của IMF.

8 Theo Báo cáo "Tương lai thị trường tiêu dùng ASEAN" do WEF công bố năm 2020.

9 Đánh giá của Ngân hàng Thế giới.

10 Các doanh nghiệp Việt Nam có 6 lần thanh toán thuế một năm, tiêu tốn 384 giờ cho việc hoàn thành các mẫu biểu, chuẩn bị và trả thuế, và mức thuế phải trả chiếm tới 37,6% lợi nhuận.


Tài liệu tham khảo:

1. Abigail.Ng (2020), Vietnam’s outlook is ‘one of the brightest’ in Asia; Asia Economy; https://www.cnbc.com/2020/07/08/vietnams-outlook-is-one-of-the-brightest-in-asia-ubs-says.html

2. Asia Times (2020), Vietnam shining bright as Covid-19 crisis winner, HongKong.

3. Vietnam’s GDP expected to grow 2.8 pct in 2020 with improved situation: World Bank; Xinhua.net; http://www.xinhuanet.com/english/2020-07/30/c_139252304.htm

4. Bộ Chính trị (2020), Kết luận số 77-KL/TW về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước.

5. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng đầu năm 2020.

6. Vũ Đình Ánh (2020), Chính sách tiền tệ tín dụng ứng phó với dịch Covid-19, Tạp chí Ngân hàng số 7/2020.

7. Việt Nam vượt Singapore, Malaysia, trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 Đông Nam Á; Thời báo Tài chính; http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2020-10-16/infographic-viet-nam-vuot-singapore-malaysia-tro-thanh-nen-kinh-te-lon-thu-4-dong-nam-a-93589.aspx



PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Tạp chí Ngân hàng số 3+4/2021
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, ESG đã và đang trở thành một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống tài chính nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Những năm gần đây, nhiều tập đoàn đã bắt đầu chú trọng vào các vấn đề đảm bảo tính bền vững trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuỗi cung ứng và các quyết định đầu tư của mình. Tại các buổi thảo luận của Liên hợp quốc, các quốc gia trong nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 đã thể hiện sự đồng thuận mang tính quốc tế cao rằng, để tăng cường tính ổn định tài chính và phát triển kinh tế dài hạn, cần nhanh chóng cải thiện các hoạt động về quản trị trách nhiệm với môi trường và xã hội (Environmental and Social Governance - E&S) tại các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động mà Liên hợp quốc hướng tới là khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện Báo cáo phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Xem thêm
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng