Nghiệp vụ đầu tư, kinh doanh chứng khoán và phân loại chứng khoán trong quá trình hạch toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thị trường tài chính
Trong xu hướng hội nhập quốc tế về tài chính và sự phát triển của thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam không những chuẩn bị hàng hóa để tham gia niêm yết mà hoạt động mua ...
aa

Trong xu hướng hội nhập quốc tế về tài chính và sự phát triển của thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam không những chuẩn bị hàng hóa để tham gia niêm yết mà hoạt động mua bán chứng khoán để đầu tư, kinh doanh cũng ngày càng đa dạng...

Chính vì thế, các nhà quản lý cũng đưa ra các nguyên tắc, quy định về khoản mục này vừa nhằm đáp ứng được yêu cầu quản trị tài chính, vừa giúp cho việc ghi nhận kế toán thống nhất và hội nhập dần với chuẩn mực kế toán quốc tế. Mục tiêu bài viết nhằm phân tích thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán và cách phân loại chứng khoán trong quá trình hạch toán tại các NHTM Việt Nam.

1. Thực trạng nghiệp vụ đầu tư, kinh doanh chứng khoán tại các NHTM Việt Nam

Trong lĩnh vực tài chính, thuật ngữ “đầu tư” (investing) và “kinh doanh” (trading) đều nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường tài chính nhưng theo các cách thức khác nhau. Hoạt động đầu tư thường chủ yếu gắn liền với việc mua và nắm giữ các công cụ đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ hoặc các công cụ đầu tư khác trong khoảng thời gian dài (có thể vài năm hoặc dài hơn) nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở hưởng lãi (trái tức, cổ tức). Hoạt động kinh doanh thì liên quan đến việc thường xuyên mua và bán cổ phiếu, hàng hóa, ngoại tệ hoặc các công cụ tài chính khác trong khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch giá.

Hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM được hiểu là việc các NHTM bỏ vốn mua các chứng khoán khác nhau để giữ đến ngày đáo hạn, bán ra trên thị trường thứ cấp hoặc thực hiện các hoạt động liên quan đến chứng khoán nhằm mục đích tăng cường khả năng thanh khoản, đồng thời đem lại thu nhập cho ngân hàng và đa dạng hóa hoạt động đầu tư kinh doanh để phân tán rủi ro. Các hoạt động liên quan đến chứng khoán chủ yếu bao gồm các hoạt động cơ bản sau: Cầm cố, chiết khấu, mua bán cổ phiếu có kỳ hạn (repo), mua chứng khoán và bán lại (reverse repo)...

Nghiên cứu thu thập số liệu của 04 NHTM chiếm thị phần lớn trong hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm: NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank); NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank); NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Argibank). Đây là các NHTM có tổng tài sản, vốn điều lệ và quy mô hoạt động lớn nhất trong hệ thống NHTM Việt Nam, đồng thời chiếm thị phần lớn trong hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của hệ thống NHTM Việt Nam, do đó cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Thời gian thực hiện nghiên cứu là giai đoạn 2011 - 2020.

Từ năm 2011 - 2017, tổng giá trị chứng khoán của 04 NHTM trên tăng đều qua các năm, tỷ lệ giá trị chứng khoán trên tổng tài sản cũng có xu hướng tăng. Điều này cho thấy trong thời gian này, cùng với việc tăng trưởng của quy mô hoạt động ngân hàng thì quy mô đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM cũng tăng theo và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng tài sản Có của ngân hàng. Từ năm 2018 - 2020, giá trị đầu tư chứng khoán giảm xuống và đến năm 2020 chiếm 9% so với tổng tài sản (Hình 1). Nguyên nhân là do các NHTM vẫn có xu hướng tập trung phát triển mạnh các hoạt động ngân hàng truyền thống như hoạt động tín dụng và đẩy mạnh hoạt động dịch vụ, phát triển công nghệ ngân hàng, đồng thời chưa thực sự quan tâm đến các hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán.



Agribank là NHTM có tỷ lệ đầu tư chứng khoán thấp nhất trong 04 ngân hàng với mức bình quân là 11,71% trong giai đoạn 2011 - 2020 mặc dù ngân hàng này có tổng tài sản là lớn nhất trong khối NHTM tại Việt Nam. Vietcombank là ngân hàng có tỷ lệ đầu tư chứng khoán bình quân cao nhất đạt mức 14,31% so với tổng tài sản trong giai đoạn 2011 - 2020. Các NHTM đều giảm dần tỷ trọng đầu tư chứng khoán trong tổng tài sản giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ này chiếm 9,02% đối với Vietinbank và 8,96% đối với BIDV vào năm 2020. (Hình 2)


Theo số liệu thống kê, các NHTM thường cơ cấu và hạch toán danh mục các chứng khoán chủ yếu vào loại hình chứng khoán sẵn sàng để bán (Available For Sale - AFS) đạt mức trung bình 75% trong giai đoạn 2011 - 2020 so với tổng danh mục đầu tư kinh doanh chứng khoán. Tỷ trọng bình quân loại hình chứng khoán kinh doanh chiếm ít nhất nhưng đã có xu hướng tăng trong những năm gần đây, điều này cho thấy các NHTM đã tích cực thực hiện chiến lược chủ động, sẵn sàng mua bán chứng khoán trên thị trường, cân đối hợp lý hơn giữa các loại hình đầu tư. Loại hình chứng khoán giữ đến ngày đáo hạn (Held To Maturity - HTM) đạt mức trung bình 22,5 %trong giai đoạn 2011 - 2020. (Hình 3)


Để làm rõ hơn về sự phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng, bài viết nghiên cứu chỉ tiêu tỷ suất sinh lời (tỷ lệ giữa tổng thu từ hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán so với quy mô đầu tư kinh doanh chứng khoán). Qua Hình 4 cho thấy, trong giai đoạn 2001 - 2014, tỷ suất sinh lời có xu hướng tăng cùng với xu hướng tăng dần của quy mô đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng. Giai đoạn 2015 - 2020, tỷ suất sinh lời có xu hướng tăng trong khi tỷ trọng đầu tư có xu hướng giảm, đây là những số liệu khả quan và thể hiện những mặt tích cực, vai trò của hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM trong chiến lược đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nhằm tối đa lợi nhuận.


2. Phân loại chứng khoán trong quá trình hạch toán kế toán tại các NHTM Việt Nam

Các tổ chức tín dụng mua bán chứng khoán nhằm mục đích sinh lợi thông qua hai kênh: Qua chênh lệch giá và qua lãi nắm giữ giấy tờ có giá. Hai mục tiêu trên của các tổ chức tín dụng có ảnh hưởng tới công tác kế toán các hoạt động này. Hoạt động mua, bán chứng khoán của các tổ chức tín dụng thường được phân thành mua, bán chứng khoán đầu tư và mua, bán chứng khoán kinh doanh. Vậy, chứng khoán đầu tư và chứng khoán kinh doanh khác nhau như thế nào?

Đối với chứng khoán kinh doanh, vì mục tiêu là hưởng chênh lệch giá thì sự biến động giá thị trường của chứng khoán ảnh hưởng quan trọng tới thu nhập, chi phí của tổ chức tín dụng. Còn đối với chứng khoán đầu tư, mục tiêu là lãi nắm giữ giấy tờ có giá thì sự biến động giá thị trường của chứng khoán trở nên không quan trọng vì các giấy tờ có giá mang lại cho tổ chức tín dụng từ phần lãi. Vì vậy, yêu cầu đặt ra trong hạch toán kế toán là phải phân loại các tài sản tài chính một cách rõ ràng, chính xác.

Chứng khoán ngân hàng mua vào có thể bao gồm chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Chứng khoán nợ là trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và các loại chứng khoán khác mà theo quy định của pháp luật, bên phát hành phải thực hiện những cam kết mang tính ràng buộc đối với bên nắm giữ chứng khoán theo những điều kiện cụ thể về thời hạn thanh toán, số tiền gốc, lãi suất. Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác lập quyền chủ sở hữu của người nắm giữ chứng khoán đối với một doanh nghiệp.

Trong hệ thống kế toán tài chính của các tổ chức tín dụng, việc hạch toán và trình bày các đối tượng này được quy định trong các văn bản: Quyết định số 479/2004/QĐ-NHNN ngày 29/4/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng; Thông tư số 10/2014/TT-NHNN ngày 20/3/2014 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số tài khoản trong hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 479/2004/QĐ-NHNN, Thông tư số 22/2017/TT-NHNN ngày 29/12/2017 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 479/2004/QĐ-NHNN ngày 29/4/2004 và Chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2007 của Thống đốc NHNN. Theo đó, hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng Việt Nam đã vận dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39. Các công cụ tài chính như ghi nhận và đánh giá, trong đó phân chia các chứng khoán ngân hàng mua vào thành các tài khoản tương ứng theo từng nhóm. So sánh với nội dung của IAS 39, các quy định liên quan đến việc ghi nhận và định giá chứng khoán của các NHTM Việt Nam đã có sự vận dụng. Hệ thống tài khoản đã phân chia chứng khoán ngân hàng mua vào thành chứng khoán kinh doanh; chứng khoán sẵn sàng để bán; chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn và trong đó, những quy định liên quan đến nhóm chứng khoán kinh doanh là khá sát hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế.

2.1. Chứng khoán kinh doanh

Chứng khoán kinh doanh bao gồm những chứng khoán được ngân hàng quản lý trong danh mục tài sản để kinh doanh với dự định bán ra trong thời gian ngắn nhằm mục đích thu lợi từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán của chứng khoán. Chứng khoán kinh doanh có thể bao gồm chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Chứng khoán vốn được hạch toán trên tài khoản chứng khoán kinh doanh được ngân hàng mua với chiến lược kinh doanh, mua để bán trong thời gian ngắn nhằm hưởng chênh lệch giá, không có mục đích kiểm soát doanh nghiệp.

Vậy, chứng khoán kinh doanh được nhận biết khá rõ dựa vào mục đích hưởng chênh lệch giá trong ngắn hạn. Ngoài ra, các chứng khoán mà ngay từ đầu xếp vào nhóm này thì không thể chuyển sang nhóm khác cho dù ý định của nhà quản trị có thay đổi.

2.2. Chứng khoán đầu tư được nắm giữ khi đến hạn

Chứng khoán thuộc nhóm này bao gồm những chứng khoán mà ngân hàng có chủ ý và có khả năng nắm giữ cho đến hết thời hạn (thời hạn cố định) để hưởng lãi suất. Chứng khoán đầu tư nắm giữ khi đến hạn chỉ bao gồm chứng khoán nợ. Những chứng khoán được phân loại vào nhóm này không được bán trước thời điểm đến hạn.

Hai điểm chính được nhấn mạnh để nhận biết nhóm chứng khoán này là ý định giữ đến ngày đáo hạn của nhà quản trị và khả năng tài chính để thực hiện được điều đó. Như vậy, nếu tổ chức tín dụng thường bán hay chuyển nhượng khoản đầu tư giữ đến đáo hạn trước thời hạn thì không nên phân loại tài sản tài chính vào nhóm giữ đến đáo hạn. Đồng thời, chứng khoán được xếp trong nhóm này cần chứng minh khả năng tài chính giữ đến đáo hạn được đảm bảo như tổ chức tín dụng có nguồn tài chính thay thế để tài trợ đến khi đáo hạn.

Ngoài ra, việc đánh giá ý định và khả năng tài chính giữ đến đáo hạn này không chỉ thực hiện vào thời điểm đầu tư mà vào mỗi thời điểm lập báo cáo tài chính sau đó. Như vậy, mỗi khi đánh giá lại mà cả hai yêu cầu là ý định giữ đến đáo hạn và khả năng tài chính không đáp ứng thì các tài sản tài chính này được chuyển sang nhóm kinh doanh hay sẵn sàng để bán.

2.3. Chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán

Chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán bao gồm những chứng khoán ngân hàng mua vào với mục đích đầu tư và sẵn sàng để bán. Chứng khoán sẵn sàng để bán có thể bao gồm chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.

Chứng khoán vốn chỉ được hạch toán trên tài khoản chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán khi số lượng chứng khoán ngân hàng đầu tư vào doanh nghiệp dưới 20% quyền biểu quyết, các chứng khoán này được niêm yết trên thị trường chứng khoán và ngân hàng đầu tư với mục tiêu dài hạn và có thể bán khi có lợi, không có mục đích kiểm soát doanh nghiệp.

Tuy nhiên, đây là loại chứng khoán khó nhận biết hơn các nhóm chứng khoán khác. Những chứng khoán mà tổ chức tín dụng mua vào không xếp vào hai nhóm trên thì gọi là chứng khoán sẵn sàng để bán. Khi tổ chức tín dụng không đủ khả năng tài chính giữ các chứng khoán đến khi đáo hạn thì thường chúng được chuyển sang nhóm này. Ngoài ra, một dấu hiệu khá rõ để phân biệt giữa chứng khoán kinh doanh và chứng khoán sẵn sàng để bán là thời gian nắm giữ của loại thứ nhất ngắn còn với loại thứ hai, việc bán phụ thuộc nhiều vào yếu tố thị trường.

3. Kết luận

Đầu tư tài chính là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường khi thị trường tài chính phát triển. Hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán có vai trò quan trọng đối với các NHTM với mục đích hỗ trợ đảm bảo thanh khoản, là công cụ thực hiện chính sách quản lý tài sản Nợ - Có, đa dạng hóa danh mục đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của hệ thống NHTM cũng đóng góp vào sự phát triển chung của thị trường chứng khoán, từ đó góp phần quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, giúp chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ, tài chính công và quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội có hiệu quả.

Định hướng phát triển đối với hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM Việt Nam là cần xây dựng và thực thi các hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán một cách bền vững, đảm bảo an toàn hệ thống, thu nhập và tỷ suất sinh lời hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán duy trì ổn định và tăng trưởng qua các năm, đồng bộ với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh chứng khoán từng bước tiếp cận với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế để trở thành một kênh hoạt động quan trọng, chuyên nghiệp, hiệu quả cho các ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.

Trong báo cáo tài chính của các ngân hàng, khoản mục đầu tư và kinh doanh chứng khoán được trình bày phổ biến nhất là trình bày các chứng khoán ngân hàng mua vào theo từng nhóm bao gồm chứng khoán đầu tư giữ đến hạn, chứng khoán kinh doanh, chứng khoán sẵn sàng để bán. Các thông tin về chứng khoán cũng được khuyến khích trình bày chi tiết hóa loại chứng khoán ngân hàng mua vào để thể hiện cách thức quản trị của mình. Việc phân loại đúng đắn các tài sản tài chính nói chung và các chứng khoán nói riêng sẽ giúp cho việc ghi nhận và định giá các khoản mục này một cách chính xác và thông tin trên báo cáo tài chính của ngân hàng cũng được minh bạch.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Báo cáo tài chính của Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank giai đoạn 2011 - 2020.

2. Chuẩn mực kế toán IAS 39 và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS 19.

3. Mạc Quang Huy (2009), Cẩm nang Ngân hàng Đầu tư. Nxb. Thống kê.

4. Quyết định số 479/2004/QĐ-NHNN ngày 29/4/2004 của Thống đốc NHNN.

5. Thông tư số 10/2014/TT-NHNN ngày 20/3/2014 của Thống đốc NHNN.

6. Thông tư số 22/2017/TT-NHNN ngày 29/12/2017 của Thống đốc NHNN.


TS. Huỳnh Thị Hương Thảo & ThS. Hoàng Đình Dũng

Khoa Tài chính Kế toán - Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. HCM


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Phát huy vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ

Tại Việt Nam, tài chính vi mô (TCVM) đã phát triển mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua với sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính, cả chính thức lẫn phi chính thức đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho phụ nữ nghèo và các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, việc nâng cao kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cho phụ nữ vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Điều này xuất phát từ các yếu tố như mức độ hiểu biết tài chính còn hạn chế, khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng số chưa cao và các rào cản văn hóa - xã hội khác.
Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Các tổ chức tài chính vi mô thường thiết kế sản phẩm tín dụng vi mô phù hợp với đặc thù từng địa phương, từ đó giảm bớt rào cản về thủ tục, tài sản thế chấp, và tạo điều kiện cho những người chưa từng tham gia hệ thống tài chính chính thức tiếp cận dịch vụ. Việc triển khai tín dụng vi mô còn gắn liền với mạng lưới hỗ trợ cộng đồng, tư vấn sử dụng vốn và đồng hành cùng người vay trong suốt quá trình kinh doanh, giúp giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2025 mang đến nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt trong các phân khúc bất động sản xanh, nhà ở giá rẻ và bất động sản nghỉ dưỡng. Các khu vực hưởng lợi từ hạ tầng như tỉnh Đồng Nai và tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh) cũng là điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư. Để thành công trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư cần phải có kiến thức sâu rộng và chiến lược đầu tư thông minh. Việc nắm rõ các yếu tố pháp lý, tài chính, cạnh tranh, thị trường, cơ sở hạ tầng, công nghệ, và quản lý rủi ro sẽ giúp nhà đầu tư đạt được thành công và tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực bất động sản. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản Việt Nam.
Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng