Ngành Ngân hàng triển khai nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua đại dịch Covid19.

Chính sách
Có thể nói, đại dịch Covid-19 là thách thức kinh tế nghiêm trọng nhất, thậm chí còn sâu rộng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009... Những tổn thương do Covid-19 gây ra khiến nề...
aa

Có thể nói, đại dịch Covid-19 là thách thức kinh tế nghiêm trọng nhất, thậm chí còn sâu rộng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009...

Những tổn thương do Covid-19 gây ra khiến nền kinh tế thế giới và Việt Nam chậm phục hồi, phải mất thời gian dài để chữa lành “vết sẹo” do đại dịch để lại. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, thực hiện “mục tiêu kép” là vừa phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế, với tinh thần nỗ lực, sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn, đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân, trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách, giải pháp để hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do dịch Covid-19, đồng thời góp phần phục hồi kinh tế.

Năm 2021 với nhiều biến động, ảnh hưởng mọi mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội trước sự bùng phát trở lại và kéo dài của đại dịch Covid-19 với biến chủng mới nguy hại hơn. Trước những khó khăn, thách thức mới chưa từng có, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách kịp thời để chỉ đạo phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, thực hiện “mục tiêu kép”, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Mục tiêu năm 2021 mà Quốc hội đề ra là tăng 6% GDP và kế hoạch của Chính phủ là tăng 6,5% GDP, trên thực tế chưa khả thi, nhưng với những thành quả Việt Nam đạt được năm 2021, thì Việt Nam vẫn được coi là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và thế giới.

Với tinh thần đồng hành, chia sẻ với doanh nghiệp, người dân, thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng đã kịp thời có những chính sách và vào cuộc tích cực để tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, đồng thời hỗ trợ phục hồi kinh tế. Ngân hàng với vai trò là “huyết mạch” của nền kinh tế, do vậy việc đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng trong và sau đại dịch là điều vô cùng quan trọng, từ đó, có cơ sở và điều kiện để sẵn sàng tiếp sức cho doanh nghiệp, người dân khôi phục sản xuất.


Trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách, giải pháp để hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do dịch Covid-19, đồng thời góp phần phục hồi kinh tế

Những chính sách kịp thời, thiết thực “tiếp sức” cho người dân, doanh nghiệp

Ngay từ khi dịch Covid-19 xuất hiện tại Việt Nam, đầu năm 2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động, tích cực ban hành các văn bản yêu cầu các chi nhánh NHNN, tổ chức tín dụng (TCTD) xem xét hoãn, giãn nợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch. Điển hình là Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (Thông tư 01). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp các TCTD triển khai giải pháp hỗ trợ kịp thời khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Sau đó, để phù hợp với thực tế diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, trong năm 2021, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021; Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01 theo hướng mở rộng đối tượng, phạm vi và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến tháng 6/2022. Đây là chính sách được các doanh nghiệp, chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá là rất kịp thời, thiết thực, như một liều thuốc tức thì hỗ trợ doanh nghiệp khi dòng tiền bị gián đoạn, sản xuất kinh doanh ngưng trệ, chưa có khả năng trả ngay những khoản nợ đến hạn.

Theo báo cáo nhanh từ các TCTD, đến ngày 29/11/2021, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho khoảng 630.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ trên 285.000 tỷ đồng. Lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu từ ngày 23/01/2020 khoảng 582.000 tỷ đồng.

Trong bối cảnh hoạt động sản xuất cầm chừng và tiêu thụ hàng hóa khó khăn, sức tiêu thụ của nền kinh tế trong và ngoài nước bị ảnh hưởng do cách ly phòng, chống dịch, nhiều doanh nghiệp lao đao, buộc phải cắt giảm chi phí, nhân lực, hoặc giải thể, ngừng hoạt động, người lao động phải nghỉ việc rơi vào cảnh bần cùng. Trong bối cảnh đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để NHCSXH cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc đối với người lao động. Đồng thời, NHNN cũng phối hợp hoàn thiện cơ chế hỗ trợ các đối tượng chính sách tiếp cận vốn, gia hạn chính sách tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo; nâng mức cho vay.

Cụ thể, về chương trình cho vay trả lương ngừng việc cho người lao động theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 (Nghị quyết 42), Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 42, đến ngày 31/01/2021 (thời điểm dừng giải ngân theo quy định), NHNN đã giải ngân cho NHCSXH với tổng số tiền gần 43 tỷ đồng và NHCSXH đã cho vay trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố với số tiền gần 42 tỷ đồng đối với khoảng 245 người sử dụng lao động để trả lương ngừng việc cho khoảng 11.276 người lao động. Đến ngày 31/10/2021, có 221 khách hàng còn dư nợ tại NHCSXH với tổng dư nợ khoảng 37,6 tỷ đồng.

Đối với chương trình cho vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, NHNN đã phối hợp các bộ, ngành liên quan để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được vốn vay. Để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận chính sách mà vẫn đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, tránh trục lợi chính sách, NHNN đã có văn bản gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (cơ quan tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành) đề nghị nghiên cứu, sửa đổi quy định về nợ xấu tại Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Ngày 08/10/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 126/NQ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, theo đó, điều kiện về nợ xấu tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm đề nghị vay vốn được Chính phủ bãi bỏ.

Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN, đến nay, NHCSXH đã giải ngân trên 63 tỉnh, thành phố với số tiền khoảng 980 tỷ đồng đối với 1.765 khách hàng để trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất cho khoảng 268.860 lượt người lao động. Đồng thời, NHCSXH đã đồng loạt giảm 10% lãi suất cho vay các TCTD đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách nhằm góp phần giảm bớt khó khăn cho người dân.

Ngoài ra, để hỗ trợ doanh nghiệp hàng không bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, thực hiện Nghị quyết số 135/2020/QH14 ngày 17/11/2020 của Quốc hội, Nghị quyết số 194/NQ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (CTCP) do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 26/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc NHNN tái cấp vốn đối với TCTD sau khi TCTD cho CTCP vay theo Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-NHNN ngày 05/4/2021 về tái cấp vốn cho TCTD sau khi TCTD cho vay CTCP và việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với khoản nợ của CTCP do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Theo đó, quy định việc tái cấp vốn cho TCTD sau khi TCTD cho CTCP vay, tổng số tiền tái cấp vốn tối đa là 4.000 tỷ đồng, lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, thời hạn tái cấp vốn tối đa bằng thời hạn cho vay của khoản cho vay CTCP, khoản tái cấp vốn được gia hạn tự động 02 lần, tổng thời gian tái cấp vốn và gia hạn tái cấp vốn không vượt quá 03 năm.

Đến nay, NHNN đã hoàn thành việc tái cấp vốn cho các ngân hàng (Seabank tối đa 2.000 tỷ đồng, MSB tối đa 1.000 tỷ đồng, SHB tối đa 1.000 tỷ đồng) để các ngân hàng cho vay CTCP; CTCP và 03 ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ và thực hiện giải ngân tổng số tiền 4.000 tỷ đồng.

"Hi sinh" lợi nhuận để giảm lãi suất cho khách hàng

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ngân hàng cũng là doanh nghiệp và chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Khi khách hàng gặp khó khăn, chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, không có khả năng trả nợ đúng hạn thì nguy cơ nợ xấu ngân hàng sẽ tăng. Với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, ngành Ngân hàng vẫn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh từ dịch vụ, tăng cường ứng dụng công nghệ trong phát triển sản phẩm, tăng cường năng lực quản trị nên lợi nhuận ngân hàng vẫn khả quan, từ đó, có cơ sở và nền tảng vững chắc để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Chưa kể ngân hàng đã “hi sinh” hàng chục nghìn tỷ đồng lợi nhuận để giảm lãi suất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, phục hồi sản xuất, kinh doanh.

Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, NHNN đã liên tiếp 03 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để các TCTD giảm mặt bằng lãi suất cho vay; thường xuyên chỉ đạo các TCTD tiết giảm tối đa chi phí hoạt động, dành nguồn lực để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng. Đến nay, mặt bằng lãi suất vay giảm khoảng 1,66%/năm so với trước dịch. Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với một số ngành, lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,3%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4,5%/năm).

Theo báo cáo nhanh từ các TCTD, đến ngày 29/11/2021, các TCTD đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,96 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ hơn 3,82 triệu tỷ đồng; lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến cuối ngày 29/11/2021, tổng số tiền lãi TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 34.000 tỷ đồng; cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến nay đạt trên 7,2 triệu tỷ đồng cho khoảng trên 1,2 triệu khách hàng. Lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến cuối tháng 11/2021, tổng số tiền lãi TCTD miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 33 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 16 ngân hàng thương mại (NHTM) (chiếm 75% tổng dư nợ nền kinh tế) đã thực hiện có kết quả việc giảm lãi suất cho vay theo cam kết với Hiệp hội Ngân hàng, từ ngày 15/7/2021 đến cuối năm 2021 tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng là trên 20 nghìn tỷ đồng.

Đặc biệt, NHNN đã chỉ đạo các TCTD mở rộng, đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, ứng dụng công nghệ 4.0 để gia tăng tiện ích cho khách hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa như cho vay liên vụ; cho vay qua sổ tín dụng; vay vốn thông qua các tổ, nhóm của các tổ chức chính trị - xã hội; cho vay, thu nợ ngay tại địa bàn của người vay; triển khai điểm giao dịch lưu động bằng ô tô

chuyên dụng...

Nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đối với công chúng, đặc biệt người dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, NHNN đã cùng với hệ thống ngân hàng tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, dịch vụ ngân hàng đến đông đảo người dân; giải đáp nhiều kiến nghị; cảnh báo các hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, sự vào cuộc tích cực của hệ thống TCTD, đến ngày 22/11/2021, tín dụng toàn nền kinh tế tăng trên 9,6% so với cuối năm 2020. Tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá. Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN, đến cuối tháng 10/2021, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tăng 10,21% so với năm 2020 và chiếm 25,11% tổng dư nợ nền kinh tế; tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,45% so với cuối năm 2020, chiếm 19,55% tổng dư nợ toàn nền kinh tế; tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu tăng 7,81% so với cuối năm 2020, chiếm 2,92% tổng dư nợ toàn nền kinh tế… Đến ngày 31/10/2021, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH tăng 7,51% so với 31/12/2020, với gần 6,4 triệu khách hàng còn dư nợ.

Trước làn sóng Covid-19 lần thứ tư diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), NHNN đã kịp thời có văn bản yêu cầu chủ tịch hội đồng quản trị/tổng giám đốc các NHTM và giám đốc NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL thực hiện ngay các giải pháp để góp phần hỗ trợ cho các thương nhân, doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh lúa, gạo. Tại Hội nghị trực tuyến “Giải pháp của ngành Ngân hàng góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành lúa gạo khu vực ĐBSCL” ngày 26/8/2021, NHNN đã yêu cầu các NHTM tập trung nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của thương nhân kinh doanh, đầu tư, chế biến lúa, gạo, người sản xuất lúa với thời hạn và lãi suất hợp lý, cùng nhiều giải pháp thiết thực khác…

Hơn 80% giá trị giao dịch thanh toán cá nhân trên kênh điện tử đã được miễn phí

Bên cạnh các chính sách về lãi suất, các TCTD cũng có nhiều chương trình miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Về phía NHNN, từ năm 2020 đến nay, NHNN đã 3 lần thực hiện giảm 50% mức phí giao dịch thanh toán qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng cho các TCTD. Lần 1: Áp dụng từ ngày 01/4 - 31/12/2020; lần 2: Áp dụng từ ngày 01/01/2021 - 30/6/2021; lần 3: Áp dụng từ ngày 01/9/2021 đến hết ngày 30/6/2022. Đồng thời, NHNN đã thực hiện hoàn phí giao dịch cho NHCSXH khi thực hiện giải ngân cho vay theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Liên quan đến chính sách về phí cung ứng dịch vụ ngân hàng, theo quy định của pháp luật hiện hành, trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, các TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh (Điều 91 Luật Các TCTD 2010). Tuy nhiên, để thúc đẩy người dân sử dụng các phương thức TTKDTM, đặc biệt là thanh toán điện tử, thời gian qua, NHNN đã tham mưu ban hành nhiều cơ chế chính sách, trong đó có đề nghị các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nghiên cứu, áp dụng chính sách ưu đãi, miễn/giảm phí dịch vụ thanh toán trong giai đoạn đầu để khuyến khích và tạo lập thói quen TTKDTM đối với tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử.

Đặc biệt, trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19, NHNN đã chủ động, tích cực, khẩn trương ban hành các chính sách; chỉ đạo các TCTD, Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (Napas) thực hiện miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, qua đó thúc đẩy TTKDTM.

Từ năm 2020 đến nay, Napas và các TCTD đã 03 lần thực hiện giảm phí giao dịch thanh toán điện tử cho khách hàng. Lần 1: Giảm phí dịch vụ chuyển tiền nhanh liên ngân hàng có giá trị nhỏ (từ 500.000 VND trở xuống), áp dụng từ ngày 25/02/2020; lần 2: Điều chỉnh giảm phí dịch vụ đối với phí dịch vụ thanh toán cho các món thanh toán có giá trị từ 500.001VND - 2.000.000VND cho khách hàng và giảm giá sử dụng sản phẩm thông tin tín dụng với khách hàng, thời gian thực hiện từ ngày 25/3/2020 đến hết ngày 31/12/2020. Ước tính tổng số phí mà các TCTD giảm cho khách hàng trong năm 2020 cho cả 02 lần giảm phí khoảng 1.004 tỷ đồng; lần 3: Thực hiện giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử tương đương với mức giảm của NHNN áp dụng từ ngày 01/01 - 30/6/2021.

Ngoài ra, Napas và các TCTD còn thực hiện các chính sách miễn phí dịch vụ thanh toán như: Miễn phí dịch vụ thanh toán với các giao dịch thanh toán trực tuyến (online) các dịch vụ công thực hiện trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công của các bộ, ngành, địa phương; miễn phí chuyển tiền ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 và hạn hán, xâm nhập mặn qua tài khoản ngân hàng; miễn phí dịch vụ thanh toán cho các đối tượng nhận hỗ trợ.

Tính chung trong 02 năm qua, ngành Ngân hàng đã giảm 50% phí hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, giảm từ 70% đến 100% phí chuyển mạch bù trừ điện tử, miễn giảm phí dịch vụ thanh toán dịch vụ công. Tổng số tiền giảm phí ngành Ngân hàng năm 2021 đến với người dân khoảng 1.557 tỷ đồng (tính cả năm 2020 thì con số này sẽ lên tới hơn 2.000 tỷ đồng). Theo thống kê của NHNN, 80% giá trị giao dịch thanh toán cá nhân trên kênh điện tử đã được miễn phí.

Tích cực thực hiện công tác an sinh xã hội

Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch bằng những giải pháp thiết thực và hiệu quả nói trên, với tinh thần tương thân tương ái, ngành Ngân hàng cũng luôn đi đầu trong công tác an sinh xã hội, đồng hành, chia sẻ với khó khăn của người dân, doanh nghiệp trước tác động tiêu cực của dịch Covid-19. Từ năm 2020 tới nay, tập thể cán bộ, công nhân viên chức ngành Ngân hàng đã dành trên 1.550 tỷ đồng hỗ trợ công tác phòng, chống Covid-19, mua máy y tế, sinh phẩm chẩn đoán Covid-19… Thực hiện Nghị quyết số 21/NQ-CP của Chính phủ về mua và sử dụng vắc-xin phòng dịch Covid-19, NHNN đã vận động các ngân hàng thể hiện quyết tâm chung tay thực hiện mục tiêu của Bộ Chính trị và Chính phủ về mua và sử dụng vắc-xin. Tổng số tiền ủng hộ cho Quỹ vắc-xin là khoảng 750 tỷ đồng.

Tiếp tục hỗ trợ người dân, doanh nghiệp để cùng thích ứng trong trạng thái “bình thường mới”

Theo Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú, năm 2022, NHNN sẽ xây dựng chương trình hành động gắn với chương trình phục hồi kinh tế của Chính phủ. Thời gian tới, trong công tác chỉ đạo, điều hành, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát; duy trì ổn định vĩ mô, thị trường, hỗ trợ phục hồi nhanh kinh tế.

Theo đó, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất phù hợp với điều hành cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, tạo điều kiện để giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế; khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí để có điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất, kinh doanh; giám sát việc triển khai cam kết giảm lãi suất cho vay của các NHTM.

Trong điều hành tín dụng, NHNN tiếp tục điều hành gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, để góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế trên cơ sở khả năng kiểm soát lạm phát. Bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tình hình dịch bệnh trong nước và quốc tế để điều hành tín dụng phù hợp theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. NHNN tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, các dự án BOT, BT giao thông, chứng khoán; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Để tạo điều kiện cho người dân, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận được vốn ngân hàng, trong đó có nhu cầu vốn phục vụ đời sống, tiêu dùng, tránh xa được tình trạng cho vay nặng lãi, NHNN tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản quy định về hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, cho vay tiêu dùng; hoàn thiện chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, các chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh, phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt khi đại dịch Covid-19 được đẩy lùi, nền kinh tế trong nước phục hồi; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ cho vay, thanh toán trực tuyến, gắn với cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, thủ tục để tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức với lãi suất phù hợp.

Năm 2022, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn đối với các khách hàng bị ảnh hưởng do dịch Covid-19. NHNN sẽ theo dõi sát tình hình, mức độ diễn biến của dịch Covid-19 để nghiên cứu và kịp thời đề xuất, ban hành những giải pháp sao cho phù hợp và hiệu quả nhất của hoạt động thị trường tín dụng.

Đặc biệt, ngành Ngân hàng tăng cường hơn nữa công tác truyền thông về các cơ chế, chính sách tín dụng ngân hàng đến mọi tầng lớp nhân dân, giúp người dân, doanh nghiệp hiểu về tín dụng từ các kênh cung cấp tín dụng chính thức, góp phần chuyển tải vốn tín dụng ngân hàng đến người dân một cách hiệu quả nhất.

Trước nguy cơ nợ xấu có xu hướng gia tăng bởi hậu quả của dịch bệnh Covid-19 trong 02 năm qua, ngành Ngân hàng cần tăng cường giám sát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh. Và để kiểm soát, giảm được nợ xấu thì doanh nghiệp cần sớm vượt qua khó khăn, phục hồi hoạt động. Điều đó phụ thuộc vào các chính sách, cơ chế tích cực sớm được ban hành và sự hỗ trợ từ nhiều nguồn lực. Trong đó, chính sách tài khóa, chính sách đầu tư công, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách về lao động, thị trường, đất đai… phải được triển khai tích cực, nhanh chóng và đồng bộ.

Về phía các doanh nghiệp, các TCTD, cũng cần có kế hoạch tự thích ứng với thực trạng, diễn biến dịch Covid-19 tại Việt Nam. Các doanh nghiệp cần chủ động phương án sản xuất kinh doanh mới của mình, tự lực vươn lên, vượt qua khó khăn để trụ vững. Tuy nhiên, nguồn lực hỗ trợ từ ngân hàng vẫn rất cần thiết, vẫn cần được đồng hành theo quan điểm: Chia sẻ, hợp tác và hỗ trợ để cùng thích ứng và tiếp tục hoạt động trong trạng thái “bình thường mới”.

Tài liệu tham khảo:

Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn

Phương Chi (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Xem thêm
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng