Lãi suất cận biên của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2005-2017 - một nghiên cứu thực nghiệm

Nghiên cứu - Trao đổi
Bài viết sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng dựa trên thông tin từ báo cáo tài chính và các chỉ số kinh tế vĩ mô để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cận biên (NIM) của 27 ngân hàng thương mại...
aa

Bài viết sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng dựa trên thông tin từ báo cáo tài chính và các chỉ số kinh tế vĩ mô để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cận biên (NIM) của 27 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam giai đoạn 2005-2017. Kết quả ước lượng mô hình nhân tố tác động cố định (FEM) và các ước lượng kiểm định tăng cường cho thấy rủi ro tín dụng, mức ngại rủi ro (risk aversion) và tỉ lệ vốn cho vay cùng chiều với NIM, trong khi đó thanh khoản và chất lượng quản lý ảnh hưởng ngược chiều với NIM. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy, bình quân trong giai đoạn khủng hoảng NIM của các NHTM giảm khoảng 1.5 lần so với thời kỳ kinh tế ổn định.



1. Giới thiệu

Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia - NFSC (2016), hệ thống NHTM tại Việt Nam đóng vai trò cung ứng vốn chính, khoảng 68% trong tổng số 1,23 triệu tỷ đồng cho phát triển kinh tế tính tới cuối năm 2016. Do đó, hệ thống NHTM hoạt động hiệu quả là động lực cho tăng trưởng và đóng góp cho ổn định kinh tế vĩ mô. NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các hoạt động ngân hàng, bao gồm: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán (khoản 3, khoản 12, Điều 4, Luật các TCTD). Trong đó, hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng được coi là hoạt động chính của các NHTM. Các NHTM hoạt động huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi từ các cá thể thừa nguồn tiền trong nền kinh tế như: người dân, doanh nghiệp với chi phí phải trả được gọi là lãi suất huy động, và dùng số tiền trên để đầu tư hoặc cho vay các cá thể đang thiếu hụt nguồn vốn với chi phí là lãi suất cho vay. Sự chênh lệch giữa tổng doanh thu từ lãi và tổng chi phí trả lãi chia cho tổng tài sản sinh lời bình quân được gọi là lãi suất cận biên (Net interest margin - NIM), đây là chỉ tiêu tài chính quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM vì nó cho thấy khả năng sinh lời ròng của đồng vốn trong chu trình luân chuyển.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Nghiên cứu của Ho and Saunders (1981) tạo tiền đề cho việc đánh giá các nhân tố tác động tới NIM. Theo đó, NIM của một NHTM phụ thuộc vào mức ngại rủi ro và quy mô giao dịch của NHTM. Allen (1988) bổ sung thêm vào giả thuyết của Ho and Saunders (1981) khi giả định rằng sản phẩm của ngân hàng là không đồng nhất và cho rằng chênh lệch lãi suất thuần có thể giảm khi sản phẩm ngân hàng đa dạng (Phan & Nguyễn, 2016). Angbazo (1997) khi nghiên cứu về NIM của 286 NHTM tại Mỹ giai đoạn 1989-1993 mở rộng thêm rủi ro vỡ nợ vì rủi ro vỡ nợ và biến tương tác giữa nó và rủi ro lãi suất cùng tác động tới NIM của NHTM, kết quả thực nghiệm từ mô hình hồi quy gộp cũng cho thấy rủi ro tín dụng, đòn bẩy và hiệu quả quản lý tác động cùng chiều, trong khi rủi ro thanh khoản tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê tới NIM. Demirgüç-Kunt and Huizinga (1999) nghiên cứu các NHTM tại 80 quốc gia giai đoạn 1988-1995 bổ sung thêm một số biến tác động tới NIM như tổng thể cấu trúc thị trường tài chính (đo lường bằng tỉ lệ tổng tài sản của hệ thống ngân hàng/GDP), các chỉ số pháp lý và thể chế (thang đo 0 tới 6), và biến giả sở hữu nước ngoài (chiếm ít nhất 50% cổ phần của một NHTM), kết quả các mô hình hồi quy gộp cho thấy cấu trúc thị trường tài chính và các chỉ số pháp lý thể chế tác động ngược chiều, trong khi sở hữu nước ngoài tác động cùng chiều tới NIM - điều này cũng được Fungáčová and Poghosyan (2011) tái khẳng định khi nghiên cứu về các NHTM tại Nga giai đoạn 1999-2007 khi cho rằng các ngân hàng nước ngoài thường có NIM cao hơn do họ khai thác được mức độ nhận biết của công chúng. Ngược lại, Peria and Mody (2004) khi nghiên cứu về các NHTM ở Mỹ Latinh đi đến kết luận rằng các NHTM nước ngoài có NIM thấp và tạo áp lực NIM thấp cho các NHTM trong nước bởi vì sự gia nhập của các NHTM nước ngoài càng làm tăng thêm tính cạnh tranh tiềm năng trong ngành, từ đó tạo áp lực giảm chi phí và làm giảm NIM, điều này cũng được Claeys and Vander Vennet (2008) rút ra từ các NHTM tại các quốc gia Tây và Đông Âu giai đoạn 1994 - 2001. Afanasieff, Lhacer, and Nakane (2002) nghiên cứu trên mẫu các NHTM tại Brazil bổ sung thêm một số biến kiểm soát vĩ mô như lãi suất cơ bản, thuế tài chính cho thấy NIM tăng khi mức lãi suất cơ bản hay phần bù rủi ro tăng, tác động của tăng trưởng sản lượng và việc đánh thuế tài chính cũng ảnh hưởng NIM. Đồng thời, các tác giả thấy rằng NIM ngày càng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô, khiến cách thức hoạt động của các NHTM cũng thay đổi với mục đích hạn chế sự giảm sút và cải thiện khả năng quản lý nhằm tăng NIM; với các yếu tố vi mô, chi phí hoạt động, tỷ số doanh thu dịch vụ và doanh thu hoạt động đều tác động tích cực với NIM. Maudos and De Guevara (2004) bổ sung thêm rủi ro thị trường và biến tương tác giữa rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng vào mô hình thực nghiệm nhằm đánh giá phương sai của lãi suất thị trường theo mô hình lý thuyết của Ho and Saunders (1981), kết quả thực nghiệm tại các NHTM của 05 quốc gia châu Âu giai đoạn 1993-2000 cho thấy NIM có xu hướng giảm là do hệ thống NHTM tại châu Âu đã nới lỏng các điều kiện cạnh tranh thông qua kết quả chỉ số Lerner lớn hơn 0. Williams (2007) cho thấy thị phần và chất lượng quản lý cũng ảnh hưởng tới NIM trên mẫu nghiên cứu các NHTM tại Australia, điều mà Hawtrey and Liang (2008) tái khẳng định khi nghiên cứu trên mẫu các quốc gia OECD. Gần đây, các nghiên cứu tiếp tục khẳng định các yếu tố vi mô và vĩ mô tác động tới NIM của NHTM như: Were and Wambua (2014) tại Kenya giai đoạn 2002-201 chỉ ra rằng các yếu tố đặc thù ngành như: tỷ lệ nợ xấu, thu nhập, chi phí hoạt động; ngược lại, các NHTM càng lớn hoặc có khả năng thanh khoản cao thì NIM càng thấp. Almeida and Divino (2015) tại Brazil giai đoạn Q1.2001-Q2.2012 cho rằng chi phí quản lí, doanh thu từ hoạt động của ngân hàng là các yếu tố vi mô ảnh hưởng đến NIM, với các yếu tố vĩ mô: tăng trưởng kinh tế (GDP), chỉ số Herfindahl tác động tích cực đến NIM. Islam and Nishiyama (2016) tại các quốc gia Nam Á giai đoạn 1997-2012 cho rằng các yếu tố tác động cùng chiều với NIM là tính thanh khoản, cơ cấu vốn chủ sở hữu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc và chi phí hoạt động trên tổng tài sản; trong khi đó yếu tố tác động ngược chiều là thị phần của ngân hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tại Việt Nam, nghiên cứu trên hệ thống NHTM của K. T. Nguyễn and Đỗ (2014) cũng chỉ ra rằng mức ngại rủi ro của ngân hàng, rủi ro tín dụng có quan hệ đồng biến với NIM, ngược lại, chất lượng quản lý có quan hệ tỉ lệ nghịch với NIM, trong khi đó, các tác giả không tìm thấy sự khác biệt trong NIM giữa NHTM vốn Nhà nước và NHTM cổ phần. Hoang and Vu (2015) chỉ ra rằng NIM của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012 tăng khi các yếu tố như chi phí hoạt động, chất lượng quản lí, tỉ lệ lạm phát tăng; trong khi đó, mức độ tập trung của các NHTM tác động ngược chiều tới NIM. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới tới NIM mà theo các nghiên cứu trước của Dietrich and Wanzenried (2011) tại Thụy Sĩ; De Haas and Van Lelyveld (2014) với 48 định chế ngân hàng lớn và Bouzgarrou, Jouida, and Louhichi (2018) tại Pháp cho rằng có tác động.

3. Mô hình và số liệu nghiên cứu


3.1. Mô hình nghiên cứu

Bài viết dựa trên các mô hình của Afanasieff et al. (2002), Were and Wambua (2014), K. T. Nguyễn and Đỗ (2014), Islam and Nishiyama (2016) để xây dựng mô hình thực nghiệm đánh giá NIM tại các NHTM Việt Nam. Theo đó, có hai nhóm biến tác động tới NIM là nhóm biến vi mô thuộc về nội tại của từng NHTM và nhóm biến kiểm soát vĩ mô thuộc về tác động chung của nền kinh tế có thể ảnh hưởng tới NIM của các NHTM. Trong các biến vi mô, bài viết phân chia thành bốn nhóm lớn là: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, mức ngại rủi ro và thị phần. Ngoài ra, bài viết đưa thêm biến giả đo lường tác động cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 nhằm đo tác động tới NIM tại các NHTM theo đề xuất của De Haas and Van Lelyveld (2014)
NIM = ɑit + ß1CRit + ß3LQTAit + ß4ETAit + ß5OPCit + ß6LDit + ß7SRit + ß8BSit + ß9INFt + ß10GDPt + ß11DUM + uit (1)

Trong đó, các biến và cách tính lần lượt được mô tả như sau
- Rủi ro tín dụng (CR): Angbazo (1997), Barajas, Steiner, and Salazar (1999), Maudos and De Guevara (2004) cho rằng rủi ro tín dụng tăng cao có thể phản ánh vào phần bù rủi ro mà NHTM tính ở đầu vào tiền gửi và đầu ra cho vay nhằm phản ứng lại cho phần lợi nhuận đã mất đi khi khách hàng vay không trả được nợ. Do đó, NIM của ngân hàng có thể sẽ cao hơn khi rủi ro tín dụng tăng lên. Trong bài viết này, tỉ lệ nợ xấu đại diện cho rủi ro tín dụng vì tỉ lệ này phản ánh khả năng một khoản tín dụng không được hoàn trả và NHTM phải chịu chi phí liên quan tới việc cấp tín dụng này.

- Rủi ro thanh khoản (LQTA): Tỉ lệ thanh khoản được tính bằng tài sản có tính thanh khoản cao (tiền và các khoản tương đương tiền, tiền gửi tại TCTD khác, chứng khoán kinh doanh), chia cho tổng tài sản. Angbazo (1997), Afanasieff et al. (2002) cho rằng một NHTM có tính thanh khoản cao thông qua việc tăng các tài sản thanh khoản sẽ làm giảm phần bù rủi ro thanh khoản trong công thức tính NIM, hay nói cách khác, có thể tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa tính thanh khoản và NIM. Tuy nhiên, ở một góc độ ngược lại, Maudos and De Guevara (2004) cho rằng việc tăng các tài sản có tính thanh khoản cao đồng nghĩa với việc tăng các chi phí cơ hội của việc dự trữ, và do đó, các NHTM cần tăng NIM để duy trì biên lợi nhuận; Peria and Mody (2004) cho rằng các NHTM luôn có xu hướng đẩy chi phí cơ hội của việc dự trữ tài sản thanh khoản tới khách hàng vay; Ahokpossi (2013) cho rằng các NHTM có rủi ro thanh khoản cao có xu hướng vay vốn khẩn cấp với chi phí cao và do đó phần bù thanh khoản được phản ánh vào NIM; Islam and Nishiyama (2016) cho rằng các NHTM có vị thế thanh khoản tốt có thể gia tăng biên lợi nhuận trên các khoản vay họ cung cấp.

- Mức ngại rủi ro (ETA): Tỉ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. McShane and Sharpe (1985), Maudos and De Guevara (2004) cho rằng NHTM có ETA cao thể hiện mức ngại rủi ro cao sẽ đòi hỏi một biên lợi nhuận cao hơn để bù đắp chi phí vốn chủ sở hữu cao. Các kết quả thực nghiệm của Hawtrey and Liang (2008) tại các quốc gia OECD, Fungáčová and Poghosyan (2011) tại Nga cho thấy ETA tác động cùng chiều với lợi nhuận của ngân hàng.

- Chi phí hoạt động (OPC): Đại diện cho chất lượng quản lý. Angbazo (1997) cho rằng chất lượng quản lý cao thể hiện ở việc lựa chọn các tài sản có khả năng sinh lời cao và sử dụng các nguồn vốn có chi phí thấp, điều này có khả năng làm tăng NIM. Maudos and De Guevara (2004) đo lường chất lượng quản lý dựa vào chi phí hoạt động cần thiết để tạo ra một đồng thu nhập thuần và lý luận rằng nếu có sự gia tăng của chỉ số này thì ngụ ý rằng chất lượng quản lý giảm, điều này được dẫn truyền vào NIM và làm NIM thấp hơn, do đó, kỳ vọng một mối quan hệ ngược chiều giữa OPC và NIM. OPC được tính bằng tỉ lệ chi phí hoạt động với doanh thu hoạt động (K. T. Nguyễn & Đỗ, 2014; Were & Wambua, 2014).

- Tỉ lệ cho vay trên tổng tiền gửi (LD): Trong mô hình thực nghiệm về các yếu tố quyết định tỷ suất lợi nhuận ròng của các NHTM, Islam and Nishiyama (2016) đã áp dụng tỷ số này như một biến giải thích để xem liệu nguồn vốn huy động (bao nhiêu trong tổng số khoản vay đã được tài trợ thông qua tiền gửi và các nguồn tài trợ khác) có ảnh hưởng đến bất kỳ quyết định quan trọng nào đối với việc định giá của các ngân hàng hay không, hay nói cách khác là có ảnh hưởng tới NIM hay không. Các tác giả kỳ vọng chỉ số này sẽ có quan hệ cùng chiều với NIM.

- Doanh thu dịch vụ (SR): Diamond (1984) cho rằng NHTM có thể tăng hoạt động ngoại bảng nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình và do đó giảm được chi phí giám sát. Angbazo (1997) cũng đồng tình khi cho rằng dịch vụ sẽ giúp NHTM gia tăng lợi nhuận bởi vì nó cho phép mở rộng các hoạt động đầu tư mà không cần quan tâm tới các giới hạn tài trợ của vốn chủ sở hữu hay tiền gửi khách hàng cho NHTM. Nghiên cứu thực nghiệm của Afanasieff et al. (2002) cũng đã chỉ ra SR được tìm thấy có tác động cùng chiều đến NIM.

- Quy mô ngân hàng (BS): Được tính bằng tỉ lệ của tổng tài sản ngân hàng trên tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng, theo Williams (2007). Các NHTM lớn hơn sẽ có ưu thế hơn trong việc nắm giữ quyền lực thị trường và có đủ điều kiện thuận lợi để hoạt động một cách tối ưu. Các NHTM lớn có khả năng cao hơn trong việc chấp nhận rủi ro của hoạt động chuyển hóa tài sản do được hưởng khoản bảo hiểm tiền gửi cao. Được cho là có khả năng xử lý rủi ro tốt hơn, các NHTM linh hoạt với việc dịch chuyển kỳ hạn bằng cách giảm phí bảo hiểm. Ảnh hưởng của quy mô ngân hàng đối với NIM cũng được đề cập trong các nghiên cứu của McShane and Sharpe (1985), Maudos and De Guevara (2004) như là một yếu tố vị thế của ngân hàng. Các nghiên cứu này cho kết quả quy mô của ngân hàng có quan hệ tỉ lệ thuận với NIM.

- Lạm phát (INF): Gambacorta (2008) cho rằng trong thời kỳ bùng nổ của nền kinh tế (mở rộng tiền tệ), nhu cầu cho vay tăng cao dẫn tới tăng lãi suất cho vay của nền kinh tế. Mặt khác, nó cũng thúc đẩy nhu cầu của người gửi tiền và do đó, NHTM không có nhiều động lực để nâng lãi suất huy động lên, kết quả là NIM của NHTM được kỳ vọng tăng lên cùng chiều với lạm phát. Ngoài ra, Tarus, Chekol, and Mutwol (2012) cho rằng ngay cả khi NHTM bỏ qua cơ hội này trong ngắn hạn (lãi suất trong ngắn hạn không phản ánh lạm phát) thì trong trung, dài hạn, NHTM phải điều chỉnh lãi suất theo kịp phần bù lạm phát, và điều này có thể làm tăng NIM. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Afanasieff et al. (2002), Ahokpossi (2013), Islam and Nishiyama (2016) cho thấy NIM tăng lên cùng với sự tăng lên của tỉ lệ lạm phát.

- Tốc độ tăng trưởng (GDP): Nghiên cứu của Islam and Nishiyama (2016) cho rằng tăng trưởng GDP có mối quan hệ đáng kể và ngược chiều với biên lợi nhuận ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiền gửi và cho vay của hoạt động ngân hàng. Các tác giả cho rằng tăng trưởng kinh tế mang lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế. Các nhà đầu tư tìm thấy nhiều dự án đầu tư và tạo cho các ngân hàng cơ hội để tài trợ vốn vay. Các NHTM có thể kinh doanh trong một môi trường tương đối dễ dàng và do đó, có thể tính phí rất ít như lãi suất cho vay thấp. Điều này dẫn tới kỳ vọng tăng trưởng kinh tế ngược chiều với NIM.
(Bảng 1)


3.2. Nguồn và dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu các biến vĩ mô (lạm phát, GDP) được thu thập từ World Bank, riêng dữ liệu lạm phát 2017, tác giả bổ sung từ Tổng cục Thống kê Việt Nam. Dữ liệu của các biến vi mô được thu thập từ báo cáo tài chính của 27 NHTM Việt Nam (chiếm 75.5% tổng tài sản của TCTD tại Việt Nam) niêm yết trên các sàn HOSE, HNX và Upcom. Tuy nhiên, vì trong giai đoạn nghiên cứu 2005-2017, có một số NHTM chưa thành lập/không truy xuất được dữ liệu (như NHTM Bắc Á khuyết 2005-2010; NHTM Tiên Phong; Bưu Điện Liên Việt khuyết 2005 - 2007; Sài Gòn - Hà Nội, Xăng dầu Petrolimex khuyết năm 2005; Viet Capital khuyết năm 2017). Do đó, dữ liệu nghiên cứu dạng bảng không cân bằng với tổng cộng có 336 quan sát được sử dụng hồi quy cho phương trình (1)

4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm

4.1. Thống kê mô tả: (Bảng 2)


NIM biến động tương đồng qua các năm và giá trị trung bình là 2,95%, giá trị trung vị là 2,78% (một nửa số quan sát có NIM trên 2,8%) ví dụ như Vietcapital, Lien Viet Post Bank, MB Bank. Giá trị cao nhất của NIM thuộc về NCB, đạt 9,08% năm 2005 và thấp nhất thuộc về HD Bank, đạt 0.44% năm 2013. Đáng chú ý là trong số các NHTM có vốn hóa lớn của Nhà nước thì chỉ có Vietinbank có NIM cao hơn trung vị của ngành, trong khi Vietcombank và BIDV lần lượt 2,65% và 2,6%. Tỉ lệ nợ xấu (đại diện cho rủi ro tín dụng) có giá trị trung bình 2,03%, cao nhất 9,6% của BIDV năm 2006. Chi phí hoạt động trung bình tính trên tổng doanh thu của các NHTM trong mẫu khoảng 50% trong khi doanh thu từ dịch vụ 10,76%, điều này phần nào phản ánh các NHTM vẫn chưa dành nguồn lực tương xứng để tăng các khoản thu từ dịch vụ. (Bảng 3)


Các hệ số tương quan rij < 0,8 là dấu hiệu cho thấy không có hiện hiện tượng đa cộng tuyến (Q. D. Nguyễn & Nguyễn, 2012, pp.239)

4.2. Kết quả mô hình hồi quy (Bảng 4)


Phương trình (1) lần lượt được ước lượng bằng kỹ thuật Pooled LS, FEM và REM. Sau đó, các kiểm định lựa chọn mô hình được đưa vào (kiểm định F, Hausman) để lựa chọn mô hình phù hợp nhất với dữ liệu bảng không cân bằng thu thập được từ 27 NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2005-2017. Kết quả cho thấy mô hình hồi quy nhân tố cố định (FEM) là phù hợp để giải thích các biến tác động tới NIM. Các kiểm định tăng cường về phương sai thay đổi và tự tương quan bậc 2 cho kết luận không bác bỏ các gả thuyết H0. Sử dụng kết quả của mô hình FEM để giải thích mối quan hệ giữa các biến độc lập và NIM, một số kết quả chính được rút ra như sau:

a) Về các biến giải thích tác động cùng chiều với NIM:

Thứ nhất, rủi ro tín dụng có quan hệ cùng chiều với NIM. Điều này đúng với kỳ vọng đặt ra ban đầu và cùng phát hiện với các bằng chứng thực nghiệm của Barajas et al. (1999) ở Colombia, Doliente (2005) tại Philippines; Fungáčová and Poghosyan (2011) tại Nga, Siddiqui (2012) tại Pakistan; K. T. Nguyễn and Đỗ (2014) tại Việt Nam. Điều này cho thấy cách thức phản ứng của NHTM trước các biến cố bất lợi khi xuất hiện rủi ro tín dụng nhằm gia tăng biên lợi nhuận.

Thứ hai, mức ngại rủi ro của các NHTM (ETA) tỉ lệ thuận với NIM, khẳng định bằng chứng của Hawtrey and Liang (2008), Fungáčová and Poghosyan (2011), Islam and Nishiyama (2016) tìm ra trước đó. Điều này cho thấy các NHTM tại Việt Nam khi đối diện với chi phí vốn chủ sở hữu cao cũng tìm cách tăng biên lợi nhuận.

Thứ ba, tỉ lệ cho vay trên tổng vốn huy động (LD) cùng chiều với NIM tương tự với Islam and Nishiyama (2016) tìm thấy tại Nepal, Ấn Độ và Pakistan. Điều này ủng hộ lập luận rằng khả năng huy động tốt (thông qua đó, cho vay tốt) hoặc tỉ lệ cho vay/huy động cao hơn sẽ mang lại NIM tốt hơn cho các NHTM tại Việt Nam.

b) Về các biến giải thích tác động ngược chiều với NIM:

Thứ nhất, thanh khoản quan hệ ngược chiều với NIM ủng hộ lập luận của Angbazo (1997), Afanasieff et al. (2002), Were and Wambua (2014). Có nghĩa là, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi các tài sản thanh khoản tăng thì phần bù rủi ro thanh khoản giảm, dẫn tới NIM của các NHTM giảm.

Thứ hai, chất lượng quản lý (OPC) tỉ lệ nghịch với NIM, đúng với kỳ vọng ban đầu theo các nghiên cứu trước của Maudos and De Guevara (2004), Williams (2007) và K. T. Nguyễn and Đỗ (2014). Điều này cho thấy trong giai đoạn nghiên cứu 2005-2017, các NHTM tại Việt Nam chưa nâng được chất lượng quản lý và để gia tăng chi phí hoạt động, dẫn tới NIM giảm (tuy lượng không nhiều, chỉ khoảng 0,02% trên 1% gia tăng chi phí hoạt động nhưng xu hướng khá rõ khi mức ý nghĩa đạt 1%).

Đối với 02 biến kiểm soát vĩ mô là lạm phát và tăng trưởng kinh tế, kết quả cho thấy NIM cùng chiều với lạm phát và ngược chiều với tăng trưởng kinh tế (nhưng không có ý nghĩa thống kê), tương đồng với Demirgüç-Kunt and Huizinga (1999), Ahokpossi (2013), Hoang and Vu (2015). Kết quả này ngụ ý rằng giả thuyết của Gambacorta (2008) về lạm phát có thể đúng tại Việt Nam. Cụ thể, trong điều kiện thị trường tiền tệ mở rộng, cung về tiền gửi tăng nhanh hơn cầu về tiền vay dẫn tới biên độ lãi suất cao hơn, qua đó, giữ ổn định hoặc gia tăng NIM tại các NHTM.

Cuối cùng, biến giả ngược chiều với NIM và có ý nghĩa thống kê cao, điều này ngụ ý rằng có bằng chứng rõ ràng về tác động của giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 ảnh hưởng tiêu cực đến NIM của các NHTM, mức độ ảnh hưởng trong phạm vi 60% - 70% (nghĩa là, khi có khủng hoảng, NIM suy giảm hơn 1,5 lần so với trong điều kiện bình thường).

5. Kết luận và gợi ý chính sách


Kết quả của mô hình hồi quy nhân tố cố định (FEM) trên dữ liệu bảng không cân bằng của 27 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2017 cho thấy NIM có xu hướng thuận chiều với rủi ro tín dụng, cơ cấu vốn chủ sở hữu và tỉ lệ cho vay/tổng vốn huy động; ngược lại, NIM có xu hướng ngược chiều với tài sản có tính thanh khoản và chất lượng quản lý. Các kết quả định lượng trên đây có thể cung cấp gợi ý cho các NHTM về việc tăng huy động vốn để tăng đầu ra tín dụng, đồng thời cân đối lại nguồn vốn phân bổ cho tài sản mang tính thanh khoản với tài sản sinh lời để tối ưu hóa NIM. Và các NHTM cần có những kịch bản ứng phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô nhằm giảm thiểu thiệt hại trong hoạt động. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cần có những sự quản lý thích hợp nhằm điều tiết NIM của các NHTM để trong ngắn hạn, tránh tình trạng có thể người đi vay phải gánh chịu các chi phí tín dụng khi NHTM phát sinh nợ xấu; và trong dài hạn, cần điều hành để giảm mức lạm phát của nền kinh tế trong mục tiêu nhằm giảm NIM của NHTM, qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Afanasieff, T. S., Lhacer, P. M., & Nakane, M. I. (2002). The determinants of bank interest spread in Brazil. Money Affairs, 15(2), 183-207.
Ahokpossi, M. C. (2013). Determinants of bank interest margins in Sub-Saharan Africa: International Monetary Fund.
Allen, L. (1988). The determinants of bank interest margins: a note. Journal of Financial and Quantitative analysis, 23(2), 231-235.
Almeida, F. D., & Divino, J. A. (2015). Determinants of the banking spread in the Brazilian economy: The role of micro and macroeconomic factors. International Review of Economics & Finance, 40, 29-39.
Angbazo, L. (1997). Commercial bank net interest margins, default risk, interest-rate risk, and off-balance sheet banking. Journal of Banking & Finance, 21(1), 55-87.
Barajas, A., Steiner, R., & Salazar, N. (1999). Interest spreads in banking in Colombia, 1974-96. IMF Staff Papers, 46(2), 196-224.
Bouzgarrou, H., Jouida, S., & Louhichi, W. (2018). Bank profitability during and before the financial crisis: Domestic versus foreign banks. Research in International Business and Finance, 44, 26-39.
Claeys, S., & Vander Vennet, R. (2008). Determinants of bank interest margins in Central and Eastern Europe: A comparison with the West. Economic Systems, 32(2), 197-216.
De Haas, R., & Van Lelyveld, I. (2014). Multinational banks and the global financial crisis: Weathering the perfect storm? Journal of money, credit and banking, 46(s1), 333-364.
Demirgüç-Kunt, A., & Huizinga, H. (1999). Determinants of commercial bank interest margins and profitability: some international evidence. The World Bank Economic Review, 13(2), 379-408.
Diamond, D. W. (1984). Financial intermediation and delegated monitoring. The review of economic studies, 51(3), 393-414.
Dietrich, A., & Wanzenried, G. (2011). Determinants of bank profitability before and during the crisis: Evidence from Switzerland. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 21(3), 307-327.
Doliente, J. S. (2005). Determinants of bank net interest margins in Southeast Asia. Applied Financial Economics Letters, 1(1), 53-57.
Fungáčová, Z., & Poghosyan, T. (2011). Determinants of bank interest margins in Russia: Does bank ownership matter? Economic systems, 35(4), 481-495.
Gambacorta, L. (2008). How do banks set interest rates? European Economic Review, 52(5), 792-819.
Hawtrey, K., & Liang, H. (2008). Bank interest margins in OECD countries. The North American Journal of Economics and Finance, 19(3), 249-260.
Ho, T. S., & Saunders, A. (1981). The determinants of bank interest margins: theory and empirical evidence. Journal of Financial and Quantitative analysis, 16(4), 581-600.
Hoang, T. K., & Vu, T. D. T. (2015). Determinants of Net Interest Margin of Commercial Banks in Vietnam. Journal of Economics and Development, 17(2), 69.
Islam, M. S., & Nishiyama, S.-I. (2016). The determinants of bank net interest margins: A panel evidence from South Asian countries. Research in International Business and Finance, 37, 501-514.
Maudos, J. n., & De Guevara, J. F. (2004). Factors explaining the interest margin in the banking sectors of the European Union. Journal of Banking & Finance, 28(9), 2259-2281.
McShane, R., & Sharpe, I. G. (1985). A time series/cross section analysis of the determinants of Australian trading bank loan/deposit interest margins: 1962–1981. Journal of Banking & Finance, 9(1), 115-136.
NFSC. (2016). Báo cáo tình hình kinh tế năm 2016 và dự báo năm 2017. Retrieved from http://nfsc.gov.vn/bao-cao-giam-sat/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-nam-2016-va-du-bao-nam-2017
Nguyễn, K. T., & Đỗ, T. T. H. (2014). Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ thu nhập lãi thuần của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kinh tế và Kinh doanh, 30(4), 55-65.
Nguyễn, Q. D., & Nguyễn, T. M. (2012). Giáo trình kinh tế lượng. Ha Noi: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
Peria, M. S. M., & Mody, A. (2004). How foreign participation and market concentration impact bank spreads: evidence from Latin America. Journal of money, credit and banking, 511-537.
Phan, T. L., & Nguyễn, A. T. (2016). Nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố tác động đến lãi suất cận biên của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam. Tạp chí Công Thương, 10, 206-213.
Siddiqui, M. A. (2012). Towards determination of interest spread of commercial banks: Empirical evidences from Pakistan. African Journal of Business Management, 6(5), 1851-1862.
Tarus, D. K., Chekol, Y. B., & Mutwol, M. (2012). Determinants of net interest margins of commercial banks in Kenya: a panel study. Procedia Economics and Finance, 2, 199-208.
Were, M., & Wambua, J. (2014). What factors drive interest rate spread of commercial banks? Empirical evidence from Kenya. Review of development Finance, 4(2), 73-82.
Williams, B. (2007). Factors determining net interest margins in Australia: domestic and foreign banks. Financial Markets, Institutions & Instruments, 16(3), 145-165.

Ths. Nguyễn Anh Tú
Phạm Trí Nghĩa


Nguồn: TCNH số 21/2018

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ đòi hỏi sự linh hoạt và sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, tương tự như nghệ thuật chiến tranh được mô tả trong chuyên luận nổi tiếng của Tôn Tử. Các ngân hàng trung ương (NHTW) có thể học được điều gì đó từ một chiến lược gia người Trung Quốc sống cách đây hơn 2.500 năm. Bài viết giới thiệu sáu nguyên tắc chiến lược được vận dụng tư tưởng của Tôn Tử dành cho các NHTW, được đề xuất bởi Giáo sư Kristin Forbes - Trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhằm qua đó, giúp họ quản lý hiệu quả các khủng hoảng và duy trì sự ổn định kinh tế.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc