Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên thị trường ngoại tệ và một số hàm ý chính sách

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD... Tóm tắt: Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NH...
aa

Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD...

Tóm tắt:

Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD. Theo đó, từ việc không niêm yết tỷ giá mua bán giao ngay, ngừng giao dịch ngoại tệ giao ngay, cho đến việc giảm sâu tới 150 đồng đối với giá mua USD kỳ hạn 6 tháng. Những hành động của NHNN đã hàm ý về việc sẽ duy trì chính sách tỷ giá USD/VND ổn định; theo đó, đồng VND sẽ không bị định giá thấp, mà ngược lại, còn có khả năng tăng giá trong tương lai. Những điều chỉnh tỷ giá của NHNN là phù hợp với diễn biến thị trường, giải tỏa được nghi ngờ của Mỹ đối với việc Việt Nam thao túng tiền tệ nhằm chiếm ưu thế trong thương mại. Bên cạnh đó, việc ổn định tỷ giá cũng được coi như là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam. Đến tháng 8 năm 2021, NHNN chuyển sang mua USD giao ngay thay vì kỳ hạn 6 tháng cũng là tín hiệu cho thấy thị trường đã trở lại trạng thái bình thường.

Từ khóa: Chính sách tỷ giá, tỷ giá giao ngay, tỷ giá kỳ hạn, Việt Nam.

1. Bối cảnh chung và diễn biến tình hình

Năm 2020 là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Dưới ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ thương mại, ví dụ, cấm xuất khẩu các mặt hàng thiết yếu như lương thực và đồ bảo hộ y tế. Bên cạnh đó, các mặt hàng nhập khẩu thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản cũng được kiểm soát gắt gao nhằm tránh sự lây lan của dịch bệnh (Curran và cộng sự, 2021). Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”, xuất nhập khẩu Việt Nam đã có những tín hiệu phục hồi vào nửa cuối năm 2020 và tạo ra lực kéo thúc đẩy sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế (Hình 1). Cụ thể, theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong năm 2020, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 545,36 tỷ USD; trong đó, giá trị xuất khẩu tăng 7% và giá trị nhập khẩu tăng 3,7%. Cán cân thương mại trong tháng 12/2020 thâm hụt 252 triệu USD. Tính cả năm 2020, cán cân thương mại của Việt Nam đạt thặng dư 19,95 tỷ USD.


Có thể thấy, vào cuối năm 2020, tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu tăng lên đột biến. Theo công thức về mối quan hệ giữa tỷ giá, tỷ trọng hàng hóa và lạm phát là:


Nhìn vào công thức cho thấy, với các nhân tố khác không đổi (PD và P*M không đổi), các nhân tố làm cho mặt bằng giá chung tăng (P tăng), tức gây lạm phát, gồm:

Thực tế cho thấy, trong những tháng cuối năm 2020, tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu đã tăng mạnh, nên biện pháp kiểm soát tỷ giá E trở thành công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam.

Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối, quy định:

“Điều 15. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam

1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và thực hiện phương án can thiệp trên thị trường ngoại tệ.

2. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ”.

Theo đó, NHNN sẽ can thiệp vào thị trường hối đoái với mục tiêu ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, phù hợp với các mục tiêu chung của chính sách tiền tệ. Trên thực tế, tỷ giá VND trong năm 2020 được neo tương đối ổn định với USD (Hình 2). Các hành động can thiệp của NHNN là phù hợp với nguyên tắc thị trường, với thông lệ quốc tế và không vi phạm về “thao túng tiền tệ” (Phạm và Nguyễn, 2021).


Tuy nhiên, đến đầu năm 2021, NHNN đã bất ngờ không niêm yết tỷ giá ngoại tệ giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay. Thay vào đó, NHNN yết tỷ giá kỳ hạn 6 tháng có thể hủy ngang đối với USD. Từ ngày 17/02/2021, NHNN đã giãn tần suất mua can thiệp trên thị trường ngoại hối chỉ còn 1 lần trên tuần và đến ngày 08/6/2021, NHNN ngừng áp dụng hủy ngang. Nhìn chung, vào thời điểm cuối tháng 6/2021 giá mua USD kỳ hạn 6 tháng đã được NHNN điều chỉnh giảm tối đa là 150 đồng so với giá USD giao ngay vào đầu năm 2021. Đầu tháng 8/2021, NHNN tiếp tục giảm giá mua USD trên Sở giao dịch NHNN nhưng đã ngưng hoạt động mua kỳ hạn mà chuyển sang mua USD giao ngay. Có thể tóm tắt hoạt động điều chỉnh giá mua USD của NHNN thành năm điểm chính:

Thứ nhất, ngừng yết giá mua USD giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay.

Thứ hai, kéo dài thời gian mua USD kỳ hạn lên thành 6 tháng thay vì 3 tháng như trước đây.

Thứ ba, giá mua USD kỳ hạn 6 tháng được điều chỉnh giảm liên tục.

Thứ tư, hủy bỏ điều khoản có thể hủy ngang đối với các hợp đồng kỳ hạn được ký từ tháng 6/2021.

Thứ năm, vào ngày 11/8/2021, NHNN đã ra quyết định tiếp tục hạ giá mua USD và thay đổi phương thức mua kỳ hạn sang giao ngay.

2. Hàm ý của chính sách

Việc NHNN ngừng mua ngoại tệ giao ngay và liên tục giảm giá mua USD kỳ hạn là động thái cho thấy, NHNN đang muốn làm chậm lại việc tăng dự trữ ngoại hối nói chung, đặc biệt là USD. Hành động này sẽ có tác động trực tiếp làm cho tỷ giá USD/VND không tiếp tục tăng và có thể có xu hướng chững lại trong những tháng cuối năm 2021. Trên thực tế, vào ngày đầu tiên bỏ niêm yết tỷ giá USD giao ngay, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng đã có dấu hiệu giảm nhẹ. Việc NHNN cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép hủy ngang hợp đồng kỳ hạn thực chất là cho phép các NHTM có thể thanh lý hợp đồng kỳ hạn trước hạn, tức chuyển các hợp đồng kỳ hạn chưa đến hạn thành hợp đồng giao ngay. Do đó, ý nghĩa là công cụ chính sách của các hợp đồng kỳ hạn bị suy giảm. Do đó, ngày 08/6/2021, NHNN đã chính thức không cho phép hủy ngang các hợp đồng kỳ hạn đã ký kết, điều này hàm ý rằng, VND không chịu áp lực giảm giá trị trong 6 tháng cuối năm 2021. Về mặt học thuật, thì tỷ giá kỳ hạn chính là tỷ giá giao ngay dự tính của thị trường tại thời điểm đến hạn. Ta có công thức:


Việc NHNH ấn định tỷ giá kỳ hạn 6 tháng được ký kết vào giữa năm 2021 và đến hạn cuối năm 2021 được cho là thông điệp chính sách phát đi từ NHNN rằng: “tỷ giá giao ngay tại thời điểm cuối năm 2021 sẽ biến động xoay quanh tỷ giá giá kỳ hạn”. Như vậy, tỷ giá kỳ hạn đến hạn cuối năm 2021 có thể được xem là tỷ giá mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.

Như vậy, việc NHNN điều chỉnh giá mua USD kỳ hạn theo hướng không để VND giảm giá kỳ hạn có tác động đến việc ổn định tỷ giá USD/VND, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô mà không tạo ra lợi thế cạnh tranh thương mại không công bằng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ đã đặt ra.

Thứ nhất, việc NHNN không niêm yết tỷ giá giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay, mà thay vào đó là việc niêm yết giá mua kỳ hạn chứng tỏ NHNN đã chủ động và tự tin trong việc kiểm soát tỷ giá cho đến cuối năm 2021. Vì tỷ giá kỳ hạn chính là tỷ giá giao ngay kỳ vọng của thị trường tại thời điểm hợp đồng kỳ hạn đến hạn, điều này chứng tỏ NHNN có khả năng dự báo và kiểm soát tỷ giá USD/VND trong thời hạn tương đối dài mà không cần can thiệp vào thị trường ngoại hối trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, động thái điều chỉnh giảm giá mua kỳ hạn USD hàm ý việc củng cố giá trị của VND so với USD. Trên thực tế, tính đến tháng 4/2021, tỷ giá USD/VND đã tương đối ổn định khi tỷ giá trung tâm chỉ tăng 52 đồng, tương ứng với 0,3% so với đầu năm 2021 (Hình 3).


Hơn nữa, việc NHNN ngừng mua ngoại tệ giao ngay, tức ngừng can thiệp vào thị trường giao ngay (không còn là người can thiệp cuối cùng), đã tạo ra cơ chế thị trường thực sự trên thị trường ngoại tệ giao ngay; theo đó, tỷ giá giao ngay USD/VND sẽ biến động tự do theo quy luật cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Thứ hai, NHNN đã sử dụng tỷ giá như một công cụ hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. Theo lý thuyết ngang giá sức mua (PPP), biến động tỷ giá được đo bằng công thức:


Do tác động của dịch Covid-19, lạm phát của Mỹ đã đạt mức 4,16% vào tháng 4 năm 2021 (Hình 4). Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng, đây chỉ là xu hướng nhất thời và lạm phát sẽ ổn định trở lại vào năm 2022. Các tổ chức như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ủy ban châu Âu và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đều đồng tình với FED và dự đoán rằng, mức lạm phát từ năm 2022 của Mỹ sẽ dao động trong mức 1,7 đến 2,5% một năm. Trong khi đó, mục tiêu kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2021 là 4%, phù hợp với dự báo của IMF, khi cho rằng mức lạm phát của Việt Nam sẽ được duy trì ổn định ở mức 4% một năm (Hình 5). Như vậy, theo Học thuyết ngang giá sức mua, thì tỷ giá USD/VND được kỳ vọng sẽ ổn định và có thể không tăng trong năm 2021. Đây được xem là cơ sở khoa học để NHNN tiến hành các hợp đồng kỳ hạn 6 tháng mua USD với mức tỷ giá thấp hơn tỷ giá giao ngay hiện hành. Hơn nữa, việc duy trì tỷ giá ổn định trong những tháng cuối năm còn có tác động đến việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2021.




Thứ ba, theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 66%, chiếm 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa cả nước. So với 4 tháng đầu năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 54% (Hình 6); đồng thời, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam đối với các mặt hàng thiết bị cơ giới, công cụ, linh kiện,… là những máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho đầu vào sản xuất trong nước. Do đó, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nếu tỷ giá CNY/VND tăng quá mức sẽ gây khó khăn thực sự cho các doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng, có thể dẫn đến đứt gãy chuỗi sản xuất của nền kinh tế nói chung và gây áp lực lạm phát cho nền kinh tế.


Xét về góc độ quan hệ tỷ giá, tương quan giá trị giữa USD và CNY là khó dự đoán, song xu hướng diễn biến thị trường từ cuối năm 2020 sang nửa đầu năm 2021 cho thấy, USD đang có xu hướng giảm giá với CNY (Hình 7). Điều này cũng logic về lý luận, đó là, lạm phát được dự báo trong năm 2021 của USD là 3,4% và CNY là 1,9%, nên USD được kỳ vọng sẽ giảm giá và CNY được kỳ vọng sẽ lên giá.



Xu hướng USD giảm giá so với đồng CNY trong thời gian qua cũng là nhân tố khiến cho NHNN phải có phản ứng chính sách kịp thời. USD giảm giá với CNY; trong khi đó, VND lại được neo giá trị với USD thì thực chất là VND cũng giảm giá với CNY và nếu NHNN tiếp tục để VND giảm giá với USD, thì VND thực chất là đã giảm 2 lần với CNY. Việc VND giảm giá sâu so với CNY là một lo ngại thực sự khi mà đầu vào cho nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc.

Như vậy, thông qua việc điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn trong những tháng cuối năm 2021, NHNN đã phát đi tín hiệu về chính sách tỷ giá mục tiêu là sẽ chủ động không để VND giảm giá so với USD. Kết quả là, VND tránh được việc phải giảm giá 2 lần so với CNY. Có thể nói, hành động điều chỉnh giá mua USD kỳ hạn 6 tháng của NHNN có tác động tích cực đến tình hình nhập khẩu, bảo đảm sản xuất của nền kinh tế được ổn định, không bị đứt gãy, nhất là trong bối cảnh đại dịch như hiện nay.

Thứ tư, về tương quan lãi suất và tỷ giá của USD và VND: Nhằm hạn chế tình trạng đô la hóa, Việt Nam đã có những biện pháp mang tính chính sách như Quyết định số 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015 của Thống đốc NHNN thì mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD là 0%. Mức lãi suất này là rất kém hấp dẫn nếu so với mức lãi suất tiền gửi bằng VND tại các NHTM. Mức lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 năm dao động trung bình từ 5% đến 7%. Tuy nhiên, do lượng kiều hối và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI chảy vào Việt Nam lớn, nên lượng USD ngoài ngân hàng và nhu cầu găm giữ ngoại tệ, đặc biệt là USD, sẽ là rất lớn (Phạm và Nguyễn, 2020). Do đó, hành động điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn của NHNN càng khiến cho USD kém hấp dẫn trong mắt người dân đang nắm giữ USD, là cơ hội để Việt Nam loại trừ tình trạng đô la hóa.

Thứ năm, hành động điều chỉnh tỷ giá mua USD kỳ hạn được xem là sự nỗ lực của NHNN trong đàm phán với Bộ Tài chính Mỹ. Năm 2020, Mỹ đưa Việt Nam và Thụy Sĩ vào danh sách điều tra các quốc gia “thao túng tiền tệ”. Theo đó, Mỹ cáo buộc Việt Nam can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ nhằm hạ giá VND. Tuy nhiên, với hành động không niêm yết tỷ giá giao ngay và không mua giao ngay USD, thì các NHTM đã bị hạn chế trong việc bán USD giao ngay cho NHNN. Thay vào đó, việc niêm yết kỳ hạn USD là minh chứng chứng tỏ NHNN sẽ không can thiệp vào thị trường một cách liên tục. Với các hợp đồng kỳ hạn 6 tháng cho thấy, NHNN sẽ chỉ can thiệp vào thị trường ngoại tệ với chu kỳ 6 đến 12 tháng. Như vậy, hành động của NHNN đã hạn chế vi phạm tiêu chí về “can thiệp” của Bộ Thương mại Mỹ. Hơn thế nữa, việc liên tục có những đợt điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn cho thấy, trong tương lai, tỷ giá USD/VND được giữ ổn định hoặc giảm. Do đó, NHNN đã xóa bỏ đi nghi ngờ của Mỹ về việc can thiệp vào thị trường nhằm điều chỉnh giảm giá VND, từ đó kích thích hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới nói chung và sang Mỹ nói riêng. Sự nỗ lực này đã được đền đáp khi vào ngày 19/7/2021, NHNN và Bộ Tài chính Mỹ đã đạt được tuyên bố chung về vấn đề chính sách tiền tệ của Việt Nam. Bà Yellen, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ đã đánh giá cao những nỗ lực và cam kết của NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá, cũng như giải quyết được các lo ngại về “thao túng tiền tệ” từ Bộ Tài chính Mỹ đối với Việt Nam.

Thứ sáu, những động thái mới nhất của NHNN cho thấy, các hành động trước đó đã thực sự có những kết quả tích cực và thị trường đã trở lại trạng thái bình thường. Ngày 11/8/2021, NHNN đã giảm giá mua vào USD trên Sở Giao dịch NHNN và ngừng mua hợp đồng kỳ hạn, quay trở lại mua USD giao ngay.

Hành động tiếp tục giảm giá mua USD trên Sở Giao dịch NHNN vào ngày 11/8/2021 đã tiếp tục củng cố tín hiệu về chính sách tỷ giá mục tiêu là sẽ không để USD tăng giá so với VND cho đến hết năm 2021. Không những thế, do tỷ giá liên ngân hàng đã giảm 1% tính từ lần điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn 6 tháng của NHNN, việc NHNN tiếp tục giảm giá mua USD là hoàn toàn phù hợp với diễn biến của thị trường trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ đang dồi dào.

Bên cạnh đó, hành động ngừng mua ngoại tệ kỳ hạn, chuyển sang mua USD giao ngay của NHNN là biểu hiện cho thấy, thị trường đã trở lại trạng thái bình thường. Với việc thành công đưa ra tuyên bố chung về vấn đề chính sách tiền tệ giữa Mỹ và Việt Nam vào ngày 19/7/2021, cáo buộc “thao túng tiền tệ” và các đe dọa về áp dụng biện pháp hạn chế thương mại đã chính thức được phía Mỹ gỡ bỏ. Trong bối cảnh này, các hành động điều chỉnh tỷ giá, can thiệp vào thị trường ngoại tệ của NHNN là vô cùng cần thiết nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo tính thông suốt của thị trường ngoại tệ giao ngay, nơi mà NHNN với vai trò người mua bán cuối cùng là điều không thể thiếu. Thực vậy, việc ngừng mua USD kỳ hạn, chuyển sang mua USD giao ngay sẽ giúp cho thị trường được bổ sung một lượng VND tức thời, từ đó tạo điều kiện giúp cho các NHTM có thể tiếp tục hạ lãi suất. Bên cạnh đó, cũng nhờ vào khoản cung tiền lớn và ngay lập tức này, thanh khoản hệ thống được kỳ vọng sẽ duy trì trạng thái dồi dào, từ đó bình ổn được lãi suất liên ngân hàng.

3. Kết luận

Tỷ giá là một biến số kinh tế, vừa là sản phẩm cung cầu của thị trường và vừa chịu tác động chính sách của chính phủ. Việc đồng nội tệ được định giá cao hay định giá thấp có thể tạo ra ưu thế hay bất lợi trong cạnh tranh thương mại với các nước. Việt Nam là nước đang phát triển, có nền kinh tế thị trường với độ mở cửa cao, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đạt gấp 2 lần GDP; do đó, tỷ giá đã trở thành nhân tố quan trọng, tác động nhanh và mạnh đến hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN không những nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, kiềm chế lạm phát, mà còn bảo đảm công bằng trong cạnh tranh thương mại giữa các nước. Đây được xem là sự thành công của Việt Nam đã được phía Hoa Kỳ hoan nghênh và đánh giá cao. Đồng thời, thông qua hoạt động trên thị trường ngoại hối, NHNN đã phát đi tín hiệu rõ ràng về chính sách tỷ giá mục tiêu trong nửa cuối năm 2021.

Tài liệu tham khảo:

1. Curran, L., Eckhardt, J. and Lee, J. (2021) ‘The trade policy response to COVID-19 and its implications for international business’, critical perspectives on international business.

2. Hải quan Việt Nam (2021), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và 12 tháng/2020, retrieved on July 24th 2021, from ID=1901&Category=Tin%20v%E1%BA%AFn%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch>.

3. Ngân hàng Nhà nước (2015), Quyết định số 2589/QĐ-NHNN về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng Đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngăn hàng nước ngoài, ban hành ngày 17/12/2015.

4. Pham, M.H. và Nguyen, V.T. (2021) ‘Một số đánh giá về cáo buộc thao túng tiền tệ của

Hoa Kỳ đối với Việt Nam’. Kinh tế và Phát triển, 285, 2.

5. U.S Department of Treasury (2021), Joint Statement from the U.S. Department of the Treasury and the State Bank of Vietnam, retrieved on July 24th 2021, from .

6. U.S inflation forecast, retrieved on July 21st 2021, from .

7. Vietnam: Inflation rate from 1986 to 2026, retrieved on July 21st 2021, from .

8. Một số tài liệu liên quan khác.


GS., TS. Nguyễn Văn Tiến
Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Trưởng khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng

ThS. Đỗ Phú Đông

Giảng viên Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng