Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên thị trường ngoại tệ và một số hàm ý chính sách

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD... Tóm tắt: Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NH...
aa

Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD...

Tóm tắt:

Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục đưa ra các thay đổi liên quan đến giá mua, bán USD. Theo đó, từ việc không niêm yết tỷ giá mua bán giao ngay, ngừng giao dịch ngoại tệ giao ngay, cho đến việc giảm sâu tới 150 đồng đối với giá mua USD kỳ hạn 6 tháng. Những hành động của NHNN đã hàm ý về việc sẽ duy trì chính sách tỷ giá USD/VND ổn định; theo đó, đồng VND sẽ không bị định giá thấp, mà ngược lại, còn có khả năng tăng giá trong tương lai. Những điều chỉnh tỷ giá của NHNN là phù hợp với diễn biến thị trường, giải tỏa được nghi ngờ của Mỹ đối với việc Việt Nam thao túng tiền tệ nhằm chiếm ưu thế trong thương mại. Bên cạnh đó, việc ổn định tỷ giá cũng được coi như là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam. Đến tháng 8 năm 2021, NHNN chuyển sang mua USD giao ngay thay vì kỳ hạn 6 tháng cũng là tín hiệu cho thấy thị trường đã trở lại trạng thái bình thường.

Từ khóa: Chính sách tỷ giá, tỷ giá giao ngay, tỷ giá kỳ hạn, Việt Nam.

1. Bối cảnh chung và diễn biến tình hình

Năm 2020 là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Dưới ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ thương mại, ví dụ, cấm xuất khẩu các mặt hàng thiết yếu như lương thực và đồ bảo hộ y tế. Bên cạnh đó, các mặt hàng nhập khẩu thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản cũng được kiểm soát gắt gao nhằm tránh sự lây lan của dịch bệnh (Curran và cộng sự, 2021). Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”, xuất nhập khẩu Việt Nam đã có những tín hiệu phục hồi vào nửa cuối năm 2020 và tạo ra lực kéo thúc đẩy sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế (Hình 1). Cụ thể, theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong năm 2020, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 545,36 tỷ USD; trong đó, giá trị xuất khẩu tăng 7% và giá trị nhập khẩu tăng 3,7%. Cán cân thương mại trong tháng 12/2020 thâm hụt 252 triệu USD. Tính cả năm 2020, cán cân thương mại của Việt Nam đạt thặng dư 19,95 tỷ USD.


Có thể thấy, vào cuối năm 2020, tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu tăng lên đột biến. Theo công thức về mối quan hệ giữa tỷ giá, tỷ trọng hàng hóa và lạm phát là:


Nhìn vào công thức cho thấy, với các nhân tố khác không đổi (PD và P*M không đổi), các nhân tố làm cho mặt bằng giá chung tăng (P tăng), tức gây lạm phát, gồm:

Thực tế cho thấy, trong những tháng cuối năm 2020, tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu đã tăng mạnh, nên biện pháp kiểm soát tỷ giá E trở thành công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam.

Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối, quy định:

“Điều 15. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam

1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và thực hiện phương án can thiệp trên thị trường ngoại tệ.

2. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ”.

Theo đó, NHNN sẽ can thiệp vào thị trường hối đoái với mục tiêu ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, phù hợp với các mục tiêu chung của chính sách tiền tệ. Trên thực tế, tỷ giá VND trong năm 2020 được neo tương đối ổn định với USD (Hình 2). Các hành động can thiệp của NHNN là phù hợp với nguyên tắc thị trường, với thông lệ quốc tế và không vi phạm về “thao túng tiền tệ” (Phạm và Nguyễn, 2021).


Tuy nhiên, đến đầu năm 2021, NHNN đã bất ngờ không niêm yết tỷ giá ngoại tệ giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay. Thay vào đó, NHNN yết tỷ giá kỳ hạn 6 tháng có thể hủy ngang đối với USD. Từ ngày 17/02/2021, NHNN đã giãn tần suất mua can thiệp trên thị trường ngoại hối chỉ còn 1 lần trên tuần và đến ngày 08/6/2021, NHNN ngừng áp dụng hủy ngang. Nhìn chung, vào thời điểm cuối tháng 6/2021 giá mua USD kỳ hạn 6 tháng đã được NHNN điều chỉnh giảm tối đa là 150 đồng so với giá USD giao ngay vào đầu năm 2021. Đầu tháng 8/2021, NHNN tiếp tục giảm giá mua USD trên Sở giao dịch NHNN nhưng đã ngưng hoạt động mua kỳ hạn mà chuyển sang mua USD giao ngay. Có thể tóm tắt hoạt động điều chỉnh giá mua USD của NHNN thành năm điểm chính:

Thứ nhất, ngừng yết giá mua USD giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay.

Thứ hai, kéo dài thời gian mua USD kỳ hạn lên thành 6 tháng thay vì 3 tháng như trước đây.

Thứ ba, giá mua USD kỳ hạn 6 tháng được điều chỉnh giảm liên tục.

Thứ tư, hủy bỏ điều khoản có thể hủy ngang đối với các hợp đồng kỳ hạn được ký từ tháng 6/2021.

Thứ năm, vào ngày 11/8/2021, NHNN đã ra quyết định tiếp tục hạ giá mua USD và thay đổi phương thức mua kỳ hạn sang giao ngay.

2. Hàm ý của chính sách

Việc NHNN ngừng mua ngoại tệ giao ngay và liên tục giảm giá mua USD kỳ hạn là động thái cho thấy, NHNN đang muốn làm chậm lại việc tăng dự trữ ngoại hối nói chung, đặc biệt là USD. Hành động này sẽ có tác động trực tiếp làm cho tỷ giá USD/VND không tiếp tục tăng và có thể có xu hướng chững lại trong những tháng cuối năm 2021. Trên thực tế, vào ngày đầu tiên bỏ niêm yết tỷ giá USD giao ngay, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng đã có dấu hiệu giảm nhẹ. Việc NHNN cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép hủy ngang hợp đồng kỳ hạn thực chất là cho phép các NHTM có thể thanh lý hợp đồng kỳ hạn trước hạn, tức chuyển các hợp đồng kỳ hạn chưa đến hạn thành hợp đồng giao ngay. Do đó, ý nghĩa là công cụ chính sách của các hợp đồng kỳ hạn bị suy giảm. Do đó, ngày 08/6/2021, NHNN đã chính thức không cho phép hủy ngang các hợp đồng kỳ hạn đã ký kết, điều này hàm ý rằng, VND không chịu áp lực giảm giá trị trong 6 tháng cuối năm 2021. Về mặt học thuật, thì tỷ giá kỳ hạn chính là tỷ giá giao ngay dự tính của thị trường tại thời điểm đến hạn. Ta có công thức:


Việc NHNH ấn định tỷ giá kỳ hạn 6 tháng được ký kết vào giữa năm 2021 và đến hạn cuối năm 2021 được cho là thông điệp chính sách phát đi từ NHNN rằng: “tỷ giá giao ngay tại thời điểm cuối năm 2021 sẽ biến động xoay quanh tỷ giá giá kỳ hạn”. Như vậy, tỷ giá kỳ hạn đến hạn cuối năm 2021 có thể được xem là tỷ giá mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.

Như vậy, việc NHNN điều chỉnh giá mua USD kỳ hạn theo hướng không để VND giảm giá kỳ hạn có tác động đến việc ổn định tỷ giá USD/VND, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô mà không tạo ra lợi thế cạnh tranh thương mại không công bằng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ đã đặt ra.

Thứ nhất, việc NHNN không niêm yết tỷ giá giao ngay và ngừng mua ngoại tệ giao ngay, mà thay vào đó là việc niêm yết giá mua kỳ hạn chứng tỏ NHNN đã chủ động và tự tin trong việc kiểm soát tỷ giá cho đến cuối năm 2021. Vì tỷ giá kỳ hạn chính là tỷ giá giao ngay kỳ vọng của thị trường tại thời điểm hợp đồng kỳ hạn đến hạn, điều này chứng tỏ NHNN có khả năng dự báo và kiểm soát tỷ giá USD/VND trong thời hạn tương đối dài mà không cần can thiệp vào thị trường ngoại hối trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, động thái điều chỉnh giảm giá mua kỳ hạn USD hàm ý việc củng cố giá trị của VND so với USD. Trên thực tế, tính đến tháng 4/2021, tỷ giá USD/VND đã tương đối ổn định khi tỷ giá trung tâm chỉ tăng 52 đồng, tương ứng với 0,3% so với đầu năm 2021 (Hình 3).


Hơn nữa, việc NHNN ngừng mua ngoại tệ giao ngay, tức ngừng can thiệp vào thị trường giao ngay (không còn là người can thiệp cuối cùng), đã tạo ra cơ chế thị trường thực sự trên thị trường ngoại tệ giao ngay; theo đó, tỷ giá giao ngay USD/VND sẽ biến động tự do theo quy luật cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Thứ hai, NHNN đã sử dụng tỷ giá như một công cụ hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. Theo lý thuyết ngang giá sức mua (PPP), biến động tỷ giá được đo bằng công thức:


Do tác động của dịch Covid-19, lạm phát của Mỹ đã đạt mức 4,16% vào tháng 4 năm 2021 (Hình 4). Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng, đây chỉ là xu hướng nhất thời và lạm phát sẽ ổn định trở lại vào năm 2022. Các tổ chức như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ủy ban châu Âu và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đều đồng tình với FED và dự đoán rằng, mức lạm phát từ năm 2022 của Mỹ sẽ dao động trong mức 1,7 đến 2,5% một năm. Trong khi đó, mục tiêu kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2021 là 4%, phù hợp với dự báo của IMF, khi cho rằng mức lạm phát của Việt Nam sẽ được duy trì ổn định ở mức 4% một năm (Hình 5). Như vậy, theo Học thuyết ngang giá sức mua, thì tỷ giá USD/VND được kỳ vọng sẽ ổn định và có thể không tăng trong năm 2021. Đây được xem là cơ sở khoa học để NHNN tiến hành các hợp đồng kỳ hạn 6 tháng mua USD với mức tỷ giá thấp hơn tỷ giá giao ngay hiện hành. Hơn nữa, việc duy trì tỷ giá ổn định trong những tháng cuối năm còn có tác động đến việc kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2021.




Thứ ba, theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 66%, chiếm 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa cả nước. So với 4 tháng đầu năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 54% (Hình 6); đồng thời, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam đối với các mặt hàng thiết bị cơ giới, công cụ, linh kiện,… là những máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho đầu vào sản xuất trong nước. Do đó, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nếu tỷ giá CNY/VND tăng quá mức sẽ gây khó khăn thực sự cho các doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng, có thể dẫn đến đứt gãy chuỗi sản xuất của nền kinh tế nói chung và gây áp lực lạm phát cho nền kinh tế.


Xét về góc độ quan hệ tỷ giá, tương quan giá trị giữa USD và CNY là khó dự đoán, song xu hướng diễn biến thị trường từ cuối năm 2020 sang nửa đầu năm 2021 cho thấy, USD đang có xu hướng giảm giá với CNY (Hình 7). Điều này cũng logic về lý luận, đó là, lạm phát được dự báo trong năm 2021 của USD là 3,4% và CNY là 1,9%, nên USD được kỳ vọng sẽ giảm giá và CNY được kỳ vọng sẽ lên giá.



Xu hướng USD giảm giá so với đồng CNY trong thời gian qua cũng là nhân tố khiến cho NHNN phải có phản ứng chính sách kịp thời. USD giảm giá với CNY; trong khi đó, VND lại được neo giá trị với USD thì thực chất là VND cũng giảm giá với CNY và nếu NHNN tiếp tục để VND giảm giá với USD, thì VND thực chất là đã giảm 2 lần với CNY. Việc VND giảm giá sâu so với CNY là một lo ngại thực sự khi mà đầu vào cho nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc.

Như vậy, thông qua việc điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn trong những tháng cuối năm 2021, NHNN đã phát đi tín hiệu về chính sách tỷ giá mục tiêu là sẽ chủ động không để VND giảm giá so với USD. Kết quả là, VND tránh được việc phải giảm giá 2 lần so với CNY. Có thể nói, hành động điều chỉnh giá mua USD kỳ hạn 6 tháng của NHNN có tác động tích cực đến tình hình nhập khẩu, bảo đảm sản xuất của nền kinh tế được ổn định, không bị đứt gãy, nhất là trong bối cảnh đại dịch như hiện nay.

Thứ tư, về tương quan lãi suất và tỷ giá của USD và VND: Nhằm hạn chế tình trạng đô la hóa, Việt Nam đã có những biện pháp mang tính chính sách như Quyết định số 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015 của Thống đốc NHNN thì mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD là 0%. Mức lãi suất này là rất kém hấp dẫn nếu so với mức lãi suất tiền gửi bằng VND tại các NHTM. Mức lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn 1 năm dao động trung bình từ 5% đến 7%. Tuy nhiên, do lượng kiều hối và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI chảy vào Việt Nam lớn, nên lượng USD ngoài ngân hàng và nhu cầu găm giữ ngoại tệ, đặc biệt là USD, sẽ là rất lớn (Phạm và Nguyễn, 2020). Do đó, hành động điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn của NHNN càng khiến cho USD kém hấp dẫn trong mắt người dân đang nắm giữ USD, là cơ hội để Việt Nam loại trừ tình trạng đô la hóa.

Thứ năm, hành động điều chỉnh tỷ giá mua USD kỳ hạn được xem là sự nỗ lực của NHNN trong đàm phán với Bộ Tài chính Mỹ. Năm 2020, Mỹ đưa Việt Nam và Thụy Sĩ vào danh sách điều tra các quốc gia “thao túng tiền tệ”. Theo đó, Mỹ cáo buộc Việt Nam can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ nhằm hạ giá VND. Tuy nhiên, với hành động không niêm yết tỷ giá giao ngay và không mua giao ngay USD, thì các NHTM đã bị hạn chế trong việc bán USD giao ngay cho NHNN. Thay vào đó, việc niêm yết kỳ hạn USD là minh chứng chứng tỏ NHNN sẽ không can thiệp vào thị trường một cách liên tục. Với các hợp đồng kỳ hạn 6 tháng cho thấy, NHNN sẽ chỉ can thiệp vào thị trường ngoại tệ với chu kỳ 6 đến 12 tháng. Như vậy, hành động của NHNN đã hạn chế vi phạm tiêu chí về “can thiệp” của Bộ Thương mại Mỹ. Hơn thế nữa, việc liên tục có những đợt điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn cho thấy, trong tương lai, tỷ giá USD/VND được giữ ổn định hoặc giảm. Do đó, NHNN đã xóa bỏ đi nghi ngờ của Mỹ về việc can thiệp vào thị trường nhằm điều chỉnh giảm giá VND, từ đó kích thích hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới nói chung và sang Mỹ nói riêng. Sự nỗ lực này đã được đền đáp khi vào ngày 19/7/2021, NHNN và Bộ Tài chính Mỹ đã đạt được tuyên bố chung về vấn đề chính sách tiền tệ của Việt Nam. Bà Yellen, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ đã đánh giá cao những nỗ lực và cam kết của NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá, cũng như giải quyết được các lo ngại về “thao túng tiền tệ” từ Bộ Tài chính Mỹ đối với Việt Nam.

Thứ sáu, những động thái mới nhất của NHNN cho thấy, các hành động trước đó đã thực sự có những kết quả tích cực và thị trường đã trở lại trạng thái bình thường. Ngày 11/8/2021, NHNN đã giảm giá mua vào USD trên Sở Giao dịch NHNN và ngừng mua hợp đồng kỳ hạn, quay trở lại mua USD giao ngay.

Hành động tiếp tục giảm giá mua USD trên Sở Giao dịch NHNN vào ngày 11/8/2021 đã tiếp tục củng cố tín hiệu về chính sách tỷ giá mục tiêu là sẽ không để USD tăng giá so với VND cho đến hết năm 2021. Không những thế, do tỷ giá liên ngân hàng đã giảm 1% tính từ lần điều chỉnh giảm giá mua USD kỳ hạn 6 tháng của NHNN, việc NHNN tiếp tục giảm giá mua USD là hoàn toàn phù hợp với diễn biến của thị trường trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ đang dồi dào.

Bên cạnh đó, hành động ngừng mua ngoại tệ kỳ hạn, chuyển sang mua USD giao ngay của NHNN là biểu hiện cho thấy, thị trường đã trở lại trạng thái bình thường. Với việc thành công đưa ra tuyên bố chung về vấn đề chính sách tiền tệ giữa Mỹ và Việt Nam vào ngày 19/7/2021, cáo buộc “thao túng tiền tệ” và các đe dọa về áp dụng biện pháp hạn chế thương mại đã chính thức được phía Mỹ gỡ bỏ. Trong bối cảnh này, các hành động điều chỉnh tỷ giá, can thiệp vào thị trường ngoại tệ của NHNN là vô cùng cần thiết nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo tính thông suốt của thị trường ngoại tệ giao ngay, nơi mà NHNN với vai trò người mua bán cuối cùng là điều không thể thiếu. Thực vậy, việc ngừng mua USD kỳ hạn, chuyển sang mua USD giao ngay sẽ giúp cho thị trường được bổ sung một lượng VND tức thời, từ đó tạo điều kiện giúp cho các NHTM có thể tiếp tục hạ lãi suất. Bên cạnh đó, cũng nhờ vào khoản cung tiền lớn và ngay lập tức này, thanh khoản hệ thống được kỳ vọng sẽ duy trì trạng thái dồi dào, từ đó bình ổn được lãi suất liên ngân hàng.

3. Kết luận

Tỷ giá là một biến số kinh tế, vừa là sản phẩm cung cầu của thị trường và vừa chịu tác động chính sách của chính phủ. Việc đồng nội tệ được định giá cao hay định giá thấp có thể tạo ra ưu thế hay bất lợi trong cạnh tranh thương mại với các nước. Việt Nam là nước đang phát triển, có nền kinh tế thị trường với độ mở cửa cao, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đạt gấp 2 lần GDP; do đó, tỷ giá đã trở thành nhân tố quan trọng, tác động nhanh và mạnh đến hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN không những nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, kiềm chế lạm phát, mà còn bảo đảm công bằng trong cạnh tranh thương mại giữa các nước. Đây được xem là sự thành công của Việt Nam đã được phía Hoa Kỳ hoan nghênh và đánh giá cao. Đồng thời, thông qua hoạt động trên thị trường ngoại hối, NHNN đã phát đi tín hiệu rõ ràng về chính sách tỷ giá mục tiêu trong nửa cuối năm 2021.

Tài liệu tham khảo:

1. Curran, L., Eckhardt, J. and Lee, J. (2021) ‘The trade policy response to COVID-19 and its implications for international business’, critical perspectives on international business.

2. Hải quan Việt Nam (2021), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và 12 tháng/2020, retrieved on July 24th 2021, from ID=1901&Category=Tin%20v%E1%BA%AFn%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch>.

3. Ngân hàng Nhà nước (2015), Quyết định số 2589/QĐ-NHNN về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng Đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngăn hàng nước ngoài, ban hành ngày 17/12/2015.

4. Pham, M.H. và Nguyen, V.T. (2021) ‘Một số đánh giá về cáo buộc thao túng tiền tệ của

Hoa Kỳ đối với Việt Nam’. Kinh tế và Phát triển, 285, 2.

5. U.S Department of Treasury (2021), Joint Statement from the U.S. Department of the Treasury and the State Bank of Vietnam, retrieved on July 24th 2021, from .

6. U.S inflation forecast, retrieved on July 21st 2021, from .

7. Vietnam: Inflation rate from 1986 to 2026, retrieved on July 21st 2021, from .

8. Một số tài liệu liên quan khác.


GS., TS. Nguyễn Văn Tiến
Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Trưởng khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng

ThS. Đỗ Phú Đông

Giảng viên Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Xem thêm
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô