Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và vai trò trung tâm của doanh nghiệp

Nghiên cứu - Trao đổi
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia, trong đó, doanh nghi...
aa

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia, trong đó, doanh nghiệp là chủ thể trung tâm của hệ thống này...

Tóm tắt:

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia, trong đó, doanh nghiệp là chủ thể trung tâm của hệ thống này. Để hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển nền kinh tế số của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), doanh nghiệp cần nỗ lực nâng cao vai trò trung tâm của mình trong điều kiện tạo thuận lợi của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bài viết phân tích tình hình hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam và chỉ ra một số hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống này.

Từ khóa: Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, doanh nghiệp, trung tâm.



Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia tọa lạc tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đã được khởi công xây dựng ngày 09/01/2021

1. Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (National Innovation System) là hệ thống liên kết giữa khu vực hàn lâm (chủ thể tạo ra tri thức - đại diện là các trường đại học, viện nghiên cứu) với khu vực công nghiệp (các ngành sản xuất, hoạt động sản xuất), trong đó, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, kết nối, tạo môi trường chính sách, thể chế thúc đẩy mối quan hệ và hoạt động tương tác giữa khu vực hàn lâm và công nghiệp để tạo ra, ứng dụng và chuyển hóa tri thức thành các giá trị gia tăng phục vụ nền kinh tế và đời sống xã hội.

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia chú trọng đến việc thiết lập cơ chế kết nối, tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế góp phần xây dựng môi trường thân thiện cho đổi mới sáng tạo, tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những cơ hội mới. Doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Theo cách tiếp cận này, ngoài khoa học và công nghệ, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn có các thể chế xã hội, điều hành kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, cơ sở hạ tầng giáo dục và truyền thông, các điều kiện thị trường.

Mặc dù trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, nhưng về tổng thể có thể khái quát hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia bao gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức ở tầm quốc gia nhằm gắn bó hữu cơ các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các trường đại học với doanh nghiệp, thúc đẩy việc tạo ra và ứng dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế. Nó như một mạng lưới bao gồm tất cả các cơ sở nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ (KH&CN), doanh nghiệp, tổ chức quy hoạch chiến lược và các cơ quan quản lý KH&CN với sự phối hợp ngang, dọc, trên phạm vi quốc gia. (Hình 1)


Thực chất của sự phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia là liên kết toàn hệ thống, lấy các công ty, các hãng, các doanh nghiệp làm chủ thể chính và là trung tâm liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới như Chính phủ, cơ cấu tổ chức ngành tài chính, hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT), tổ chức NC&PT, các trường đại học nghiên cứu. Đó không phải là một hành động tách biệt, cũng không phải diễn ra theo đường thẳng. Hệ thống chứa đựng nhiều yếu tố của quá trình đổi mới sáng tạo. Những yếu tố này không tách rời mà tương tác với nhau nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo công nghệ của quốc gia.

Các thành phần chính trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam

Các cơ quan hoạch định chính sách: Bao gồm các cơ quan của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Trong đó, Bộ KH&CN là cơ quan Nhà nước có chức năng giúp Chính phủ trong việc hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách trong lĩnh vực KH&CN, bộ phận cơ bản nhất cấu thành hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Bên cạnh đó là sự tham gia của các bộ, ngành và chính quyền địa phương.

Các tổ chức NC&PT và các trường đại học: Đây là thành phần chính thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nhân lực KH&CN, sáng tạo tri thức và công nghệ. Hiện nay, nước ta có khoảng 700 tổ chức nghiên cứu KH&CN và 235 trường đại học (không kể các tổ chức thuộc khối an ninh, quốc phòng).

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố, vấn đề then chốt đối với đổi mới sáng tạo. Năng lực sáng tạo quốc gia phụ thuộc phần lớn vào chất lượng giáo dục và đào tạo các nhà khoa học, kỹ thuật và các nhà chuyên môn khác, cũng như mức độ bao phủ của hệ thống giáo dục.

Các doanh nghiệp: Bao gồm các nhóm doanh nghiệp: (1) Doanh nghiệp quy mô lớn đi đầu, dẫn dắt những doanh nghiệp vệ tinh, doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây cũng là nhóm doanh nghiệp có đầu tư cao cho KH&CN như VinGroup, Viettel, FPT, CMC, Trường Hải...; (2) Doanh nghiệp nhỏ và vừa có các hoạt động nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, ứng dụng và đổi mới công nghệ; (3) Doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp công nghệ cao; (4) Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, có tiềm năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ.

Các tổ chức trung gian hỗ trợ: Gồm có các tổ chức tài chính (các ngân hàng, quỹ, công ty đầu tư mạo hiểm... đầu tư, hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các hoạt động đổi mới sáng tạo); các cơ quan về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng và kiểm định; các khu công nghệ cao, các cơ sở ươm tạo, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh, các trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các tổ chức trung gian tư vấn, môi giới, sàn giao dịch về công nghệ...

Một số kết quả phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam

Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện hội nhập quốc tế. Việt Nam đã xây dựng và ban hành một số khung pháp lý tương đối đồng bộ và đầy đủ cho các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bao gồm các luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật nhằm khuyến khích đầu tư cho KH&CN, thúc đẩy việc ứng dụng và đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Điển hình như Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Sở hữu trí tuệ...

Một số nỗ lực lớn khác gần đây hướng tới đổi mới sáng tạo như việc thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) nhằm thực hiện hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng phát triển KH&CN; Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia (NSSC) được thành lập ngày 04/3/2019 với sứ mệnh kết nối các mạng lưới và cung cấp dịch vụ hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật (IoT Innovation Hub) cũng được ra mắt ngày 10/4/2019 nhằm hỗ trợ nền tảng đổi mới sáng tạo cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ NC&PT. Đây là trung tâm đầu tiên ở Việt Nam kết nối các trường đại học, doanh nghiệp để phát triển nghiên cứu và thử nghiệm các ứng dụng IoT trong phát triển các sản phẩm công nghệ mới.



Robot trí tuệ nhân tạo đầu tiên của Việt Nam tại Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021

2. Doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Nhu cầu đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp

Nằm ở trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh và đầy biến động. Các doanh nghiệp vì vậy, luôn đứng trước nhu cầu phải đổi mới và liên tục đổi mới sản phẩm trên thị trường để tồn tại và phát triển. Sản phẩm mới, độc đáo, chất lượng cao, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng là yếu tố sống còn của một doanh nghiệp trên thị trường. Thực tế cho thấy, những ý tưởng mới có thể xuất hiện từ rất nhiều nguồn và ở bất kỳ giai đoạn trong nghiên cứu, triển khai, tiếp thị và phổ biến công nghệ mới. Đây là cơ sở của mô hình đổi mới mang tính liên kết và hệ thống nhưng lấy doanh nghiệp làm trung tâm liên kết trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Bản chất của mô hình là liên kết toàn hệ thống, lấy các hãng làm chủ thể chính và là trung tâm liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

Trong quá trình đổi mới công nghệ hoặc sản phẩm, các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng kết quả nghiên cứu, sáng chế, hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm để thực thi các ý tưởng đổi mới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp mình. Đồng thời, chính bản thân các đối tác cũng thường xuyên tập trung phục vụ nhu cầu đổi mới của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Tất cả tạo thành một hệ thống bao gồm các tác nhân và các mối liên kết lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Các hoạt động NC&PT được gắn với các nhu cầu sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp.

Đặc điểm chủ yếu của mô hình này là tính liên kết cao, không có hoạt động nào, yếu tố nào, tổ chức nào, tác nhân nào, khâu nào trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia lại được thực hiện độc lập với doanh nghiệp. Như vậy, thay vì chú trọng đến các yếu tố nguồn lực và tổ chức, cách tiếp cận hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia chú trọng các mối liên kết giữa các nguồn lực, các nhân tố của hệ thống, các sản phẩm được đổi mới ở đầu ra hơn là các nguồn lực được cung cấp ở đầu vào, chú trọng nhu cầu của người tiêu dùng, lấy doanh nghiệp chứ không phải là các tổ chức NC&PT làm trung tâm của hệ thống.

Trong những năm qua, Chính phủ luôn xác định doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới sáng tạo, chú trọng đổi mới công nghệ để tăng năng suất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, quốc gia. Các chính sách, pháp luật về KH&CN đã tập trung thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quy trình quản lý.

Doanh nghiệp là trung tâm của những thay đổi trong hệ thống pháp luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Để tiếp tục phát huy vai trò của KH&CN trong phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra một số định hướng quan trọng, cụ thể như sau: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, trong đó xác định “Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp là trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh”.

Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định nhiều nhiệm vụ, giải pháp để phát triển toàn diện KH&CN trong giai đoạn tới. Cụ thể: Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN; Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế, phương thức quản lý tổ chức, hoạt động KH&CN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu chủ yếu, là yếu tố “lõi” của hệ thống khoa học quốc gia.

Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 cũng đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp để doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Thể chế hóa các chỉ đạo, định hướng của Đảng, hành lang pháp lý về KH&CN tiếp tục được hoàn thiện theo hướng gắn kết và phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt là các ưu đãi đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN có nhiều quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN, chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm trong việc đánh giá hồ sơ đăng ký, cụ thể hóa quy trình, thủ tục tiếp cận chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN.

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhận được nhiều sự hỗ trợ về cơ chế, tài chính, đầu tư... thông qua hàng loạt văn bản luật và dưới luật. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP với quy định nổi bật là ưu đãi miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp KH&CN. Cụ thể, thu nhập của doanh nghiệp KH&CN từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Như vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có thể được hưởng rất nhiều ưu đãi khi đăng ký là doanh nghiệp KH&CN.

Để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp tại các trường đại học; thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

Nghiên cứu, xây dựng thể chế cho các ngành, lĩnh vực kinh doanh trên nền tảng công nghệ mới, đã xuất hiện hoặc có tiềm năng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ. Ở các ngành có tiềm năng nhưng có mức độ ảnh hưởng cao tới kinh tế, xã hội như tài chính, ngân hàng, nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm (regulatory sandbox) để doanh nghiệp có thể phát triển và thí điểm sản phẩm, dịch vụ mới.

Quyết định số 18/2019/QĐ-TTg ngày 19/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng đưa ra nhiều nhóm giải pháp mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chính là kiểm soát chặt việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ và tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, trực tiếp tháo gỡ rất nhiều vướng mắc, khó khăn của các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Để tạo môi trường hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp hoạt động sáng tạo và xây dựng không gian liên kết giữa doanh nghiệp và các nhân tố trong hệ thống đổi mới sáng tạo, Chính phủ đã quyết định thành lập NIC với tầm nhìn trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư trong, ngoài nước và các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam, từ đó góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các cơ chế, chính sách ưu tiên của NIC như ưu đãi thuế, tài chính, pháp lý và đặc biệt là tiếp cận với mạng lưới các nhân tài, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo… hướng đến nhóm đối tượng hưởng lợi chủ yếu là các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với vai trò là một trung tâm quốc gia, NIC sẽ kết nối, hỗ trợ và hợp tác với các cơ sở hỗ trợ đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ hiện tại, tạo thành hệ thống đổi mới sáng tạo trên khắp cả nước, qua đó, góp phần phát triển và nâng cấp năng lực công nghệ của nền kinh tế. NIC được xây dựng là nơi thử nghiệm các chính sách, thể chế vượt trội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hấp dẫn đủ sức cạnh tranh trong khu vực để thu hút nhân tài, thu hút đầu tư đổi mới sáng tạo, khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu phát triển và khởi nghiệp sáng tạo đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0.

Bên cạnh các hoạt động tạo cơ chế, chính sách thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, Việt Nam còn thực hiện một loạt chương trình quốc gia về KH&CN như: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, các chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia, Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020, Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016 - 2020, Chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Đề án Hệ tri thức Việt số hóa, Chương trình trọng điểm cấp quốc gia: “Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0”... Quan điểm lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia đã được thể hiện rõ nét trong các hoạt động chỉ đạo, điều hành của Bộ KH&CN.

Chi phí cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo

Trong những năm qua, ngân sách Nhà nước đầu tư cho hoạt động KH&CN duy trì vào khoảng 2% tổng chi hằng năm, xấp xỉ bằng 0,5% GDP (gồm cả chi quốc phòng, an ninh và chi dự phòng). Ngân sách Nhà nước chi cho KH&CN bao gồm kinh phí sự nghiệp KH&CN và kinh phí đầu tư phát triển KH&CN, trong đó, kinh phí hoạt động sự nghiệp thường chiếm khoảng 60% và kinh phí đầu tư phát triển chiếm khoảng 40% tổng chi. (Bảng 1)


Tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) là một chỉ tiêu chính được sử dụng để đánh giá cường độ NC&PT của một quốc gia. Hình 2 cho thấy, tổng chi quốc gia cho NC&PT của Việt Nam năm 2017 là 26.368 tỷ đồng, bằng 0,52% GDP. Tỷ lệ chi cho NC&PT/GDP đã liên tục tăng ổn định từ mức 0,19% năm 2011 lên 0,52% năm 2017, nhờ có sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn.

Trong Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020 được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới của Liên hợp quốc (WIPO) công bố ngày 20/9/2020, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42 trong bảng xếp hạng, đứng thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế (Bảng 2)


Trong bộ Chỉ số GII, chỉ số chi NC&PT do doanh nghiệp trang trải (% tổng chi cho NC&PT), tăng xếp hạng từ 64 năm 2012 lên hạng 13 năm 2018 và hạng 8 năm 2019. Trong ASEAN, chỉ số này năm 2019 của Việt Nam chỉ xếp sau Thái Lan (hạng 4).

Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp có xu hướng gia tăng các hoạt động NC&PT, tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp quy mô lớn, giúp tỷ trọng tổng chi quốc gia cho NC&PT/GDP liên tục tăng ấn tượng.

Việc gia tăng thứ hạng thể hiện rất rõ ở các chỉ số liên quan đến đầu vào và đầu ra của đổi mới sáng tạo. Các chỉ số tăng mạnh là tổng chi cho NC&PT, sản phẩm dựa trên tri thức và công nghệ. Minh chứng cho thấy, từ năm 2018 đến nay ghi nhận sự chuyển đổi mạnh mẽ của các tập đoàn lớn đầu tư phát triển KH&CN chi cho NC&PT tăng mạnh như: VinGroup, CMC, Trường Hải, Phennika, Dầu khí Việt Nam...

Như vậy, Việt Nam đã hình thành những điều kiện khung có lợi cho việc phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia như các chính sách về đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, chống cạnh tranh không lành mạnh, đổi mới hoạt động KH&CN, đơn giản hóa thủ tục hành chính, phát triển các quỹ hỗ trợ và phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh và đào tạo... Các chính sách về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho NC&PT, tổ chức KH&CN, thực hiện cơ chế tự chủ, phát triển thị trường KH&CN, doanh nghiệp KH&CN, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo... tiếp tục được hoàn thiện.

Một số hạn chế của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua, nhưng vai trò của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam vẫn còn một số vấn đề cần hoàn thiện, điển hình như:

Thực tế, số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo ở Việt Nam vẫn còn ít. Nguyên nhân bởi nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ gặp khó khăn khi đổi mới công nghệ do nguồn lực tài chính hạn chế. Ngoài ra, một số bất cập trong chính sách cũng ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.

Mặc dù doanh nghiệp là chủ thể chiếm tỷ lệ lớn trong phần chi do doanh nghiệp thực hiện và trang trải nhưng mức chi chung cho NC&PT còn thấp. Tỷ lệ chi cho KH&CN của Việt Nam, cả khu vực Nhà nước và tư nhân chỉ khoảng 0,44% GDP, mức thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới là 2,23% GDP. Việt Nam đang chậm hơn về mức độ sẵn sàng công nghệ, về đổi mới sáng tạo và về năng suất lao động so với một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và Singapore.

Tỷ lệ chi NC&PT/GDP của Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với Trung Quốc (2,2% năm 2019), Đài Loan (3,5% năm 2019) và các nước ASEAN như Singapore, Malaysia, Ấn Độ đều có tỷ lệ hơn 2%.

Nhân lực cho đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo Báo cáo Chỉ số GII của Việt Nam năm 2020, bình quân số nhà nghiên cứu (FTE) trên 1 vạn dân ở Việt Nam (chỉ đạt khoảng 7 người/vạn dân), thấp hơn nhiều so với Singapore (66), Malaysia (22), Thái Lan (12). Đào tạo nguồn nhân lực cấp đại học của Việt Nam chưa tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, chỉ số xếp hạng GII về giáo dục đại học của Việt Nam đứng thứ 81/129 nền kinh tế. Chất lượng nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn kém, thể hiện qua chỉ số “Lao động có kiến thức” của doanh nghiệp đứng thứ 102/129 nền kinh tế.

Nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp ít về số lượng và yếu về chất lượng. Số cán bộ NC&PT trong doanh nghiệp chỉ chiếm 24,06% và số lượng tiến sỹ, thạc sỹ chỉ chiếm khoảng 3% tổng số của cả nước. Để doanh nghiệp thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì nguồn nhân lực NC&PT, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp phải lớn mạnh hơn nữa cả về số lượng và chất lượng.

Mặc dù Việt Nam có quy mô nhân lực đông, có sức khỏe nhưng còn thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo. Đây là điểm bất lợi của lao động Việt Nam để hội nhập với lao động thế giới. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2019, kỹ năng kỹ thuật số của người Việt Nam được đánh giá ở mức điểm 3,8 trên thang điểm 7 (xếp hạng 97/141), kỹ năng phản biện trong giảng dạy chỉ ở mức 3 điểm trên thang điểm 7 (xếp hạng 106/141 nền kinh tế).

Mối liên kết giữa các thành phần trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các tổ chức trung gian hỗ trợ đổi mới sáng tạo chưa thực sự hiệu quả, phản ánh qua chỉ số “Liên kết đổi mới sáng tạo” trong GII 2019 của Việt Nam đứng thứ 86/129 nền kinh tế. Khoảng 80% doanh nghiệp cho biết họ không có hợp tác với đơn vị/tổ chức khác để thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo. Chỉ số liên kết đổi mới sáng tạo “Hợp tác viện - trường - doanh nghiệp” trong GII của Việt Nam giảm nhiều về thứ hạng trong các năm từ 2012 đến 2015, sau đó bắt đầu có xu hướng cải thiện lại dần dần, năm 2020 chỉ số này tăng 10 bậc (từ vị trí 75 lên 65). Việc doanh nghiệp thiếu thông tin về các hình thức hỗ trợ của Nhà nước là rào cản chính khiến các doanh nghiệp không tận dụng được các hình thức hỗ trợ của Nhà nước. Các yếu tố khác như thị trường KH&CN, tài chính, sở hữu trí tuệ, thông tin, cơ sở hạ tầng... chưa phát huy được hiệu quả cao nhất trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

3. Giải pháp nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

Theo bản chất của cách tiếp cận hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì chính doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn là trung tâm của đổi mới chứ không phải các viện nghiên cứu hay các tổ chức nghiên cứu. Do đó, nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp sẽ làm hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển bền vững và hiệu quả.

Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia từ việc lựa chọn mục tiêu, hoạch định và điều phối chính sách cũng như việc tạo lập những nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách mới về đổi mới sáng tạo như phát triển thị trường công nghệ, cơ sở hạ tầng hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực và khởi nghiệp sáng tạo.

Để nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà nước đã bước đầu có những đổi mới tư duy trong quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh, khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các giải pháp của Chính phủ đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị; hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tiến hành rà soát, tái cơ cấu các chương trình KH&CN quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển, khai thác tài sản trí tuệ...

Việc tái cấu trúc các chương trình KH&CN quốc gia, không chỉ là để tăng nội hàm đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp tham gia nhiều hơn, mà còn theo định hướng tạo ra cầu nối chính sách để các nhà khoa học đến với doanh nghiệp và cùng giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp. Đây cũng là cách để các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ của mình. Những điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc tập trung nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần lấy đổi mới công nghệ và chất lượng quản lý làm phương pháp then chốt để khắc phục khó khăn và phát triển; phấn đấu làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể chính của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Để tồn tại và lớn mạnh, các doanh nghiệp cần phải hướng vào thị trường, đẩy mạnh hoạt động NC&PT, tích cực chuyển hóa và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ công nghệ và nâng cấp công nghệ. Việt Nam cần đầu tư đáng kể về kết cấu hạ tầng tương ứng để đảm bảo tính bền vững của cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức trung gian hỗ trợ NC&PT và đổi mới sáng tạo, các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ, trung tâm hỗ trợ và thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các sàn giao dịch công nghệ của quốc gia, vùng và địa phương, có chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn nữa để thu hút các doanh nghiệp lớn của nước ngoài chuyển giao công nghệ và xây dựng các trung tâm NC&PT của họ ở Việt Nam; tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và doanh nghiệp trong nước cùng liên kết để phát triển nhanh các lĩnh vực công nghệ then chốt của CMCN 4.0, nâng cao năng lực công nghệ trong nước.

Bên cạnh những nỗ lực của chính các doanh nghiệp, Chính phủ và các cơ quan liên quan cũng cần tăng cường hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn, hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp.

Tài chính cho NC&PT và đổi mới sáng tạo

Đầu tư cho NC&PT của doanh nghiệp Việt Nam hiện chiếm khoảng 64% tổng đầu tư cho NC&PT quốc gia, dù đã tăng nhiều so với những năm trước nhưng để doanh nghiệp thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì tỷ lệ phải đạt từ 75 - 80%.

Thực hiện các chính sách và nỗ lực đầu tư để thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp, cùng với việc ban hành các chương trình quốc gia với trọng tâm thúc đẩy nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp thông qua các hoạt động đổi mới quy trình và đổi mới sản phẩm công nghệ. Đồng thời, cần nỗ lực đưa các kênh hỗ trợ tài chính theo hình thức quỹ đi vào thực chất và hiệu quả, như quỹ phát triển KH&CN quốc gia và địa phương, quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp,... Đối với các doanh nghiệp coi trọng đầu tư đổi mới công nghệ nên được hưởng các ưu đãi lớn hơn về thuế, phí, lệ phi, có thể miễn hoặc giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thể hiện sự quan tâm, ưu đãi đối với các doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ.

Nhu cầu vốn cho hoạt động đổi mới sáng tạo công nghệ ngày càng lớn, hầu như các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp cho các hoạt động đổi mới sáng tạo về sản phẩm, quy trình và NC&PT (trên 90% số doanh nghiệp). Tiếp đến là nguồn vốn vay, doanh nghiệp huy động vốn vay nhiều nhất để thực hiện đổi mới sáng tạo cho sản phẩm (gần 50% số doanh nghiệp). Hầu như các doanh nghiệp chưa tích cực huy động vốn hỗ trợ từ Nhà nước và các nguồn khác. Đây là điểm cần lưu ý vì các doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận tới nguồn vốn hỗ trợ từ Nhà nước. Do vậy, cần loại bỏ những rào cản để doanh nghiệp có thể tiếp cận tới nguồn vốn hỗ trợ này. Việc đầu tư cho hoạt động KH&CN nên được đổi mới theo hướng tập trung xây dựng một số viện nghiên cứu, trường đại học, các phòng thí nghiệm trọng điểm gắn liền với các doanh nghiệp. Một số viện nghiên cứu, trường đại học là cơ sở nghiên cứu mạnh sẽ là những đầu tàu trong NC&PT và liên kết đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp.

Cần thực hiện thêm các biện pháp bổ sung nhằm thu hút đầu tư nước ngoài có hàm lượng tri thức cao và tạo điều kiện phát huy tác động lan tỏa từ doanh nghiệp nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước. Nên thực hiện một chương trình thí điểm đối tác công tư về NC&PT và đổi mới sáng tạo nhằm tập trung và tận dụng nguồn lực và tăng cường hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu nhà nước và doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp

Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là giải pháp quan trọng vì con người luôn là yếu tố trung tâm của quá trình đổi mới sáng tạo. Con người sáng tạo ra các ý tưởng, đồng thời biến ý tưởng đó thành hiện thực, tức là tạo ra các công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới. Hiện trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam còn khá thấp cả về số lượng và chất lượng. Do đó, cần đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong các doanh nghiệp và tại các viện nghiên cứu, trường đại học. Nhất là trong xu hướng hiện nay coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các trường đại học là những cơ sở nghiên cứu mạnh. Để doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì cần có nhiều chính sách khuyến khích hơn nữa khu vực này trong đào tạo nhân lực, trong đó cần tập trung phối hợp đào tạo nhân lực NC&PT giữa doanh nghiệp - viện - trường.

Ngoài ra, doanh nghiệp cần tạo ra môi trường học tập, nghiên cứu hiện đại, chú trọng học tập, cập nhật các thành tựu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các nước trên thế giới, đặc biệt, cần có chính sách sử dụng hợp lý thể hiện ở chế độ lương, chính sách đãi ngộ... Đồng thời, cần có chính sách thu hút nhân tài khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt phải chuyển từ tiêu chuẩn “thâm niên” sang “vị trí công việc”, “kết quả”. Doanh nghiệp có thể mở rộng nguồn tài trợ cho các trường đại học, không chỉ bao gồm học phí và các khoản hỗ trợ của Nhà nước mà còn bao gồm hợp đồng nghiên cứu và đóng góp của khu vực tư nhân.

Phát triển mối liên kết giữa viện - trường và doanh nghiệp

Điều tra của Bộ KH&CN cho thấy, khoảng 80% doanh nghiệp cho biết họ không hợp tác với đơn vị/tổ chức khác để thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo. Do vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu thêm các cơ chế, chính sách để tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp với các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu công lập hay các nhà tư vấn, phòng thí nghiệm, hoặc tổ chức NC&PT ngoài Nhà nước. Đồng thời, cần nhanh chóng phát triển các tổ chức trung gian thúc đẩy đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nói riêng và thị trường KH&CN nói chung. Cần phát triển mạnh các loại hình tổ chức trung gian của thị trường KH&CN bao gồm: Cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN; Trung tâm, sàn giao dịch công nghệ, chợ công nghệ - thiết bị; Tổ chức dịch vụ đánh giá, định giá, giám định, tư vấn chuyển giao công nghệ; Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ; Các tổ chức dịch vụ KH&CN khác liên quan.

Mối liên kết viện - trường - doanh nghiệp được thúc đẩy phát triển thông qua việc xây dựng và phát triển NIC, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối cần tăng cường vận động, thu hút các doanh nhân và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, các công ty công nghệ, công ty hỗ trợ đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài,… hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho NIC, thu hút nhân tài, kết nối hệ thống cơ sở hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước. Duy trì, thúc đẩy sự phát triển mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam, gắn kết với hoạt động của NIC, phát huy, khai thác sức mạnh khoa học công nghệ của người Việt và các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học công nghệ trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược cho NIC để làm điểm tựa phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại NIC.

Tài liệu tham khảo:

1. Đánh giá đổi mới sáng tạo doanh nghiệp: Những kết quả bước đầu, Báo Khoa học và Phát triển, 13/09/2018.

2. Đổi mới sáng tạo: Nhìn từ cuộc điều tra thí điểm đầu tiên tại Việt Nam, Báo Khoa học và Phát triển, 05/04/2019.

3. Sách Khoa học công nghệ Việt Nam 2019, 2018, Cục Thông tin Khoa học Công nghệ, Bộ KH&CN.

4. Nguyễn Đức Khương (2020), Kinh tế sáng tạo và sự vươn lên của các quốc gia, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập.

5. UNCTAD (2019), Creative Economy Outlook: Trends in international trade in creative industries.

6. UNCTAD (2008), Creative Economy Report: The challenge of assessing the Creative economy towards informed policy - making.

7. World Bank (2014), Đánh giá Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

8. World Bank (2020), Vietnam: Doing business 2020, Challenges and Solutions.


TS. Nguyễn Hải Đăng

Giám đốc Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng