Công nghệ thông tin BIDV - Dặm dài phát triển

Hoạt động ngân hàng
Những thành tựu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) luôn gắn liền với phát triển ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong suốt 30 năm qua... Ứng dụng...
aa

Những thành tựu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) luôn gắn liền với phát triển ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong suốt 30 năm qua...


Ứng dụng CNTT đã thúc đẩy quá trình đổi mới nghiệp vụ ngân hàng nhằm phát triển sản phẩm dịch vụ mới, thuận tiện và thực sự hướng tới khách hàng. Ứng dụng CNTT cũng mang lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động kinh doanh của BIDV nhờ khả năng giao dịch tập trung, trực tuyến, khả năng tự động hóa cao trong nhiều lĩnh vực xử lý thông tin ngân hàng...

Những dấu ấn trưởng thành về CNTT của BIDV

Giai đoạn 1991 - 2001, CNTT BIDV được hình thành và xử lý phân tán: Đây là giai đoạn BIDV chính thức đưa CNTT vào phục vụ hoạt động, từng bước vi tính hóa các quy trình quản lý dữ liệu thủ công. Hệ thống CNTT ở giai đoạn này còn phân tán, chủ yếu thực hiện trên các máy trạm và các mạng cục bộ tại chi nhánh, quỹ tiết kiệm. Sự kết nối trong hệ thống chủ yếu thông qua các file báo cáo. Tuy vậy, nhờ ứng dụng CNTT, năng suất lao động của BIDV không ngừng tăng. Hầu hết các sản phẩm CNTT giai đoạn này được cán bộ CNTT của BIDV tự xây dựng và triển khai.

Tháng 7/1991, BIDV chính thức thành lập bộ phận điện toán thuộc phòng Điện toán thống kê với 3 cán bộ và 2 chiếc máy tính đầu tiên đánh dấu sự hiện diện của CNTT trong hoạt động của BIDV. Đến tháng 7/2000, Ban Công nghệ tin học được thành lập với 5 phòng chức năng và 50 cán bộ. Mạng lưới cơ sở gồm 4 phòng điện toán và 58 tổ điện toán ở các chi nhánh, với 220 cán bộ làm công tác tin học.

Về hạ tầng kỹ thuật, từ 2 chiếc máy tính đầu tiên, BIDV nhanh chóng đầu tư trang bị máy tính tới các chi nhánh lớn. Đến năm 2001, BIDV đã có trên 2.500 máy tính, 250 máy chủ và trên 100 mạng LAN tại Hội sở chính và chi nhánh. Mạng WAN kết nối giữa Hà Nội - Đà Nẵng – Thành phố Hồ Chí Minh và kết nối toàn bộ mạng LAN của các chi nhánh.

Từ năm 1991 đến năm1994, CNTT bắt đầu được ứng dụng với một số phần mềm phục vụ công tác quản lý kế toán, lập cân đối kế toán hằng ngày, quản lý giao dịch trên máy tính phục vụ huy động tiết kiệm bảo đảm bằng vàng. Đến năm 1995, hoạt động CNTT của BIDV đã có những đổi mới đáng kể với việc triển khai các chương trình giao dịch ngân hàng SIBA, hệ thống máy tính tại các chi nhánh được nối mạng LAN.

Đến năm 1996, hoạt động CNTT của BIDV bắt đầu có sự chuyển biến mạnh mẽ với chương trình ứng dụng Core Banking IBS (do cán bộ CNTT của BIDV tự phát triển). Với sự trợ giúp đắc lực của CNTT, BIDV là một trong bốn ngân hàng đầu tiên của Việt Nam tham gia tổ chức thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT. Năm 1997, triển khai thành công hệ thống thanh toán tập trung (T4).

Giai đoạn 2002 - 2005, BIDV hiện đại hóa hệ thống CNTT ngân hàng: BIDV đã hiện đại hóa được hệ thống CNTT trong giai đoạn này. Lần đầu tiên BIDV triển khai một dự án CNTT lớn theo chuẩn mực quốc tế với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới thông qua dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán ngân hàng. CNTT đã làm thay đổi toàn bộ mô hình tổ chức và quy trình quản lý ngân hàng theo hướng tập trung. BIDV triển khai thành công và về đích sớm nhất trong 6 tiểu dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Lần đầu tiên tại Việt Nam, khách hàng gửi tiền một nơi rút được nhiều nơi ở BIDV.

Trung tâm CNTT được thành lập ngày 08/11/2001 và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/01/2002 đánh dấu sự trưởng thành về mô hình tổ chức và lực lượng CNTT. Đến năm 2005, BIDV có gần 400 kỹ sư, kỹ thuật viên CNTT. Từ năm 2002 đến năm 2005, BIDV tập trung mọi nguồn lực thực hiện hiện đại hóa và hệ thống thanh toán để trang bị Core Banking nhằm nâng cao khả năng ứng dụng, giảm thời gian xử lý, tăng tiện ích cho khách hàng. Trong năm 2003, hệ thống T4 được nâng cấp, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển bởi hệ thống T5 với nhiều ưu điểm vượt trội.

Giai đoạn này cũng đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ATM: Bắt đầu thử nghiệm từ năm 1998 tại Sở Giao dịch 1, đến tháng 6/2002, dịch vụ thẻ BIDV-ATM được chính thức khai trương phục vụ khách hàng. Cuối năm 2005, BIDV đã phát hành trên 293.000 thẻ, mạng lưới ATM đạt 200 máy triển khai tại 40 chi nhánh, đứng thứ 2 về thị phần sau Vietcombank.

Giai đoạn 2006 - 2018, CNTT tạo sự khác biệt, nâng cao năng lực cạnh tranh của BIDV: BIDV đã không ngừng cải tiến đổi mới mô hình hoạt động, trong đó có mô hình quản lý CNTT, chuyển dần từ mô hình quản lý CNTT phân tán sang quản lý CNTT tập trung, tách bạch giữa quản trị CNTT và triển khai, vận hành hệ thống CNTT, từng bước hoàn thiện mô hình ứng dụng CNTT hiện đại, đưa hàng loạt các giải pháp CNTT ngân hàng hiện đại vào ứng dụng, cung cấp ngày càng nhiều các sản phẩm dịch vụ ngân hàng chất lượng cao đến khách hàng. Hoạt động CNTT của BIDV từng bước trưởng thành và khẳng định vai trò là một trong các công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh của BIDV.

Tháng 10/2006, Ban Công nghệ được thành lập, thể hiện rõ nét hơn tính chuyên nghiệp trong hoạt động CNTT tại BIDV với chức năng tham mưu cho lãnh đạo BIDV trong hoạch định xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển CNTT toàn ngành, quản lý và phát triển hệ thống CNTT.

Về hạ tầng, phần mềm ứng dụng và các sản phẩm ứng dụng CNTT, trên cơ sở hoàn thành triển khai và đưa vào sử dụng trong toàn hệ thống BIDV hệ thống Core Banking - SIBS hiện đại từ ngày 22/10/2005, hoạt động CNTT giai đoạn 2006 đến nay đã được triển khai đồng bộ, có nhiều bước tiến vững chắc, đáp ứng yêu cầu xu thế phát triển CNTT chung và hội nhập.

BIDV đã xây dựng và triển khai được hệ thống CNTT hiện đại, hỗ trợ tích cực tất cả các mảng hoạt động của BIDV như kết nối thành công Banknetvn, kết nối thanh toán thẻ VISA; đưa Trung tâm dự phòng thảm họa tại Hải Dương vào hoạt động; đưa vào sử dụng Blade Server, SAN,...; triển khai gói sản phẩm như @Securites cho các công ty chứng khoán, hệ thống ngân hàng điện tử (Internet Banking - Smart Banking); năm 2013 triển khai thành công chương trình hạch toán tự động điện chuyển tiền trong nước thay thế cho việc xử lý giao dịch thủ công, nhờ đó, 100% khối lượng giao dịch của toàn hệ thống được xử lý tập trung, hoàn toàn tự động tại Hội sở chính, không gây thất thoát, tốc độ thanh toán nhanh, rủi ro tác nghiệp giảm nhiều, tiết kiệm chi phí cho toàn hệ thống gần 21 tỷ đồng/năm; năm 2014 - 2015, BIDV đã hoàn thành triển khai và đưa vào sử dụng các hệ thống ứng dụng CNTT hiện đại, như: Hệ thống Thông tin quản lý MIS, hệ thống Kondor, hệ thống CNTT cốt lõi cho BSC, Leasing, Hệ thống MPA, ERP, phòng chống rửa tiền, đào tạo trực tuyến, quản lý văn bản; hoàn thành triển khai hệ thống Contact Center; hoàn thành việc sáp nhập hệ thống CNTT của ngân hàng MHB.

Giai đoạn 2019 đến nay, CNTT nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào chuyển đổi tự động hóa, ngân hàng số: BIDV tiếp tục đẩy mạnh phát triển các dịch vụ hỗ trợ hoạt động ngân hàng bán lẻ như bổ sung các dịch vụ mới cho hệ thống dịch vụ tin nhắn biến động số dư tài khoản BSMS, Smart Banking, Pay+…; tăng vị thế của BIDV trong việc mở rộng kết nối thanh toán với các đối tác khách hàng, là ngân hàng đầu tiên triển khai mở rộng thanh toán song phương với Bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc, với Kho bạc Nhà nước, Hải quan…; ứng dụng BPM trong phát triển chương trình Quản lý luân chuyển hồ sơ phần mềm, ứng dụng Robotics RPA trong nhiều hoạt động tác nghiệp giúp tăng năng suất lao động và rút ngắn thời gian thực hiện; nghiên cứu áp dụng nền tảng công nghệ mới vào hoạt động phát triển phần mềm như xây dựng frame work, kiến trúc Micro service, cổng thông tin DPL (Data Publish Layer),…;

Năm 2020, BIDV tiếp tục triển khai những phần mềm đem lại hiệu quả cao như: Ngân hàng lưu ý giám sát, Quản lý khoản vay Covid, hệ thống chuyển tiền ACH; phát triển thêm nhiều kênh phân khối tới khách hàng như BIDV Ezone, Hành trình khách hàng, máy giao dịch thông minh B-smart; nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển ngân hàng số như mô hình xử lý Single Sign-on cho Internet Banking, hệ thống BIDV API, ứng dụng Blockchain trong phát hành Thư tín dụng; hoàn thành triển khai một số dự án quan trọng như dự án ECM số hóa và quản lý tài liệu chuyên nghiệp, dự án RLOS, dự án TF.

Đặc biệt, trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 phức tạp, Trung tâm CNTT đã xây dựng phương án duy trì hoạt động theo 3 cấp độ đảm bảo triển khai kế hoạch kinh doanh liên tục. Đồng thời, BIDV triển khai giải pháp họp trực tuyến Cisco Webex chỉ trong vòng 01 tháng trong giai đoạn giãn cách xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ, với tổng số 2.130 phiên họp.


Trung tâm CNTT nhận Huân chương Lao động Hạng Ba - Năm 2016

Thành quả và bảng vàng danh hiệu

Qua 30 năm hình thành và phát triển, hoạt động CNTT tại BIDV đã đạt được những thành tựu quan trọng, được các tổ chức trong và ngoài nước thừa nhận là một trong những ngân hàng có nền CNTT mạnh hàng đầu Việt Nam. Uy tín và vị thế của CNTT BIDV trong quan hệ hợp tác, triển khai các hoạt động về CNTT với các đối tác, các hãng và khách hàng được đánh giá cao. Đồng thời, CNTT từng bước đáp ứng và phục vụ tốt yêu cầu quản lý và kinh doanh của BIDV; luôn giữ vai trò chủ đạo, là yếu tố then chốt phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ, nâng cao tính cạnh tranh, tăng trưởng và đổi mới mô hình hoạt động của BIDV khi Việt Nam bước vào hội nhập quốc tế.

BIDV đã xây dựng được một hệ thống ứng dụng CNTT có quy mô lớn và tương đối hiện đại; chiến lược phát triển CNTT của BIDV ngày càng cụ thể, bám sát định hướng, chiến lược kinh doanh ngân hàng; mô hình quản trị CNTT hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế; hạ tầng CNTT được xây dựng vững mạnh, hoạt động ổn định và đáp ứng được nhu cầu hoạt động của ngân hàng; đội ngũ cán bộ CNTT BIDV không ngừng phát triển, đào tạo bài bản và khẳng định thương hiệu (hầu hết các cán bộ CNTT đều được đào tạo bài bản có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, kỹ sư CNTT; nhiều cán bộ trong số đó được đào tạo từ các trường CNTT có tiếng trên thế giới).

Công tác hỗ trợ, quản trị vận hành hệ thống đã được thưc hiện một cách bài bản, an toàn và thông suốt trong điều kiện quy mô hệ thống và số lượng giao dịch tăng trưởng liên tục hằng năm trên 20%. CNTT đẩy nhanh và hỗ trợ tích cực quá trình kinh doanh đối ngoại phục vụ phát triển, hội nhập; hỗ trợ tích cực hoạt động của các đơn vị thành viên, đơn vị có vốn góp của BIDV trong và ngoài nước.



Một số giải thưởng về CNTT của BIDV

*. BIDV là ngân hàng được đánh giá cao nhất về mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT tại Việt Nam (Vietnam ICT Index), trong 10 năm tham gia Vietnam ICT Index, BIDV có tới 8 lần được đánh giá và xếp hạng Nhất.

*. Giải thưởng “Ngân hàng Việt Nam tốt nhất về công nghệ và vận hành 2015” do Tạp chí Ngân hàng Tài chính châu Á - Asian Banking and Finance (ABF) trao tặng.

*. Giải thưởng Best Mobile Banking Support 2018 dành cho chương trình BIDV Smart Banking do Tạp chí quốc tế uy tín International Finance Magazine (IFM).

*. Hàng năm (từ năm 2016 trở lại đây) đều có những chương trình, sản phẩm tự xây dựng đạt được giải thưởng Sao Khuê do VINASA đánh giá, xếp hạng và công nhận đối với các sản phẩm dịch vụ xuất sắc, uy tín hàng đầu của ngành công nghệ phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam.

*. Giải thưởng Ngân hàng điện tử tiêu biểu các năm 2014 và 2019 và do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) phối hợp với Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) tổ chức.

*. Top 5 ngân hàng được quan tâm nhất - chương trình giải thưởng Ngân hàng điện tử yêu thích - MyEbank 2014 - do Báo điện tử VnExpress tổ chức.

*. Hệ thống IBank đã được giải thưởng Sản phẩm dịch vụ giải pháp công nghệ số tiêu biểu tại chương trình Vietnam Digital Awards 2019.

*. CNTT BIDV còn xuất sắc đạt Giải thưởng Lãnh đạo CNTT xuất sắc khu vực Đông Dương năm 2009 và Giải thưởng Lãnh đạo CNTT xuất sắc khu vực Đông Nam Á năm 2010, 2013…



Nguyễn Thanh Long

Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin - BIDV


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng