Công nghệ số và mô hình hoạt động của các ngân hàng trong tương lai

Công nghệ & ngân hàng số
Mô hình hoạt động là mô tả trừu tượng về cách một tổ chức hoạt động theo các quy trình, tổ chức và các miền công nghệ để hoàn thành chức năng của mình (De Vries và cộng sự, 2011). Đối với ngân hàng, khác với mô hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông thường, mô hình kinh doanh của ngân hàng mô tả cách ngân hàng đó tạo ra, cung cấp, mang đến giá trị cho khách hàng và duy trì điều đó trong cả một quá trình (Osterwalder và Pigneur, 2011).
aa

Mô hình hoạt động là mô tả trừu tượng về cách một tổ chức hoạt động theo các quy trình, tổ chức và các miền công nghệ để hoàn thành chức năng của mình (De Vries và cộng sự, 2011).

Đối với ngân hàng, khác với mô hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông thường, mô hình kinh doanh của ngân hàng mô tả cách ngân hàng đó tạo ra, cung cấp, mang đến giá trị cho khách hàng và duy trì điều đó trong cả một quá trình (Osterwalder và Pigneur, 2011). Trong khi các mô hình kinh doanh coi doanh thu, chi phí và kết quả là khả năng sinh lời, thì các mô hình hoạt động tập trung vào chi phí như một mục tiêu chính để chú trọng tính hiệu quả, đây được coi là một trong hai ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng (Crosby và cộng sự, 2013). Sự suy giảm lợi nhuận biên hiện nay đang thách thức nhiều ngân hàng phải xem lại mô hình hoạt động do giảm doanh thu biên trong khi chi phí biên lại không giảm. Ví dụ, chi phí biên của các ngân hàng tư nhân châu Á ở cùng mức như các thị trường Tây Âu phát triển (khoảng 60 bp1). Ngược lại, ngân hàng ở khu vực Mỹ Latinh và Trung Đông hoạt động với chi phí biên thấp hơn (khoảng 40bp) do chi phí nhân viên hỗ trợ, công nghệ thông tin (CNTT) và văn phòng thấp hơn hai khu vực trên (Vandenberghe et al., 2014). Trong danh mục chi phí, chi phí nhân sự đại diện cho tỷ trọng chủ yếu và phản ánh các tình huống khác nhau liên quan đến tỷ lệ chi phí/thu nhập với khoảng 80% ở Thụy Sĩ, 70% ở Đức, 60% ở Mỹ, 50% ở Thụy Điển và Luxemburg, 40% ở Singapore và Hồng Kông, còn Trung Quốc là 30% (Hintermann và cộng sự, 2014).


Sự phát triển đối với các mô hình hoạt động mới cho các ngân hàng có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia và toàn cầu

Bên cạnh chi phí nhân sự chiếm gần 60% tổng chi phí của các ngân hàng, chi phí CNTT chiếm tỷ trọng lớn thứ hai với khoảng 20% (Gopalan và cộng sự, 2012). Nhìn chung, các ngân hàng có chi phí CNTT cao nhất trong tất cả các ngành liên quan đến doanh thu. So với các ngành khác mà chi phí CNTT được dự đoán sẽ giảm (ô tô giảm 1%, ngành hóa chất giảm 3%), chi phí CNTT trong các ngân hàng được dự báo sẽ tăng với mức tăng hằng năm là 3% (BCG, 2013). Điều này được cho là do một số lượng lớn các hệ thống CNTT không đồng nhất với tuổi thọ tổng thể có thể lên đến hơn 40 năm.

Tác động đột phá ngày càng tăng của CNTT đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, mang lại những hệ quả như phi trung gian hóa, giảm thu nhập và tổ chức lại chuỗi giá trị với các tác nhân mới. Các công ty khởi nghiệp công nghệ tài chính (Fintech) và các tổ chức phi ngân hàng khác đang phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành Ngân hàng với việc thiết lập hệ sinh thái mới với các tổ chức phi ngân hàng khác và các định chế khác trong ngành dịch vụ tài chính. Điều đó đang đặt ra những câu hỏi và thách thức đối với mô hình hoạt động của các ngân hàng.

Mô hình hoạt động của các ngân hàng cho đến nay vẫn chủ yếu dựa trên sự tích hợp mạnh mẽ theo chiều dọc của các quy trình quản lý, ngân hàng lõi và hoạt động hỗ trợ. Một sự phát triển gần đây được gọi là “siêu chuyên môn hóa” đã xuất hiện các dịch vụ cung ứng có xu hướng chi tiết hơn trong tương lai cũng như các mô hình cung ứng mới, như nguồn cung ứng cộng đồng. Do sự phát triển của CNTT (như công nghệ chuỗi khối (Blockchain)) và tiêu chuẩn hóa (như giao diện lập trình ứng dụng (API) mở), các ngân hàng hiện có thể thuê ngoài các dịch vụ ở cấp độ các nhiệm vụ đơn lẻ (ví dụ: DNA App Store). Việc nguyên tử hóa chuỗi giá trị này có thể dẫn đến các cấu trúc tổ chức phi tập trung hơn thứ chúng ta biết ngày nay.

Tổng hợp lại, ba xu hướng sau đây đặc trưng cho sự phát triển đối với các mô hình hoạt động mới cho các ngân hàng:

(1) Tăng cường quy định pháp lý: Quy định pháp lý đề cập đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng và thể hiện sự hội tụ giữa thị trường trong nước và nước ngoài (do các quy định trong nước và xuyên biên giới chặt chẽ hơn, chẳng hạn như FATCA hoặc Basel III). Ví dụ, theo một cuộc khảo sát đối với Liên minh châu Âu, ước tính chi phí liên quan đến các quy định là 8,6 tỷ EUR từ năm 2010 đến năm 2015 (Pukropski và cộng sự, 2013). Các danh mục dự án của nhiều ngân hàng chiếm hơn 50% chi phí liên quan các quy định. Các lĩnh vực đóng góp nhiều tác động pháp lý nhất là kiểm soát/quản lý rủi ro (56%), tuân thủ (54%), tài chính doanh nghiệp (52%), sửa đổi nội bộ (32%) và CNTT/tổ chức (27%). Mặc dù CNTT/tổ chức chỉ bị ảnh hưởng 27%, nhưng số tiền đầu tư tuyệt đối là cao nhất trong tất cả các lĩnh vực nói trên vì quy trình và CNTT là thành phần của tất cả các lĩnh vực khác. Việc đáp ứng của hệ thống với các yêu cầu của quy định mới được coi là ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng (Crosby et al., 2013).

(2) Tăng cường phân cấp: Nhiều ngân hàng vẫn chưa chuyển đổi mô hình hoạt động của mình từ chuỗi giá trị tích hợp theo chiều dọc sang các mô hình phân rã, linh hoạt hơn như hiện nay, chẳng hạn như trong ngành ô tô. Một thước đo chính để đánh giá mức độ chuyên môn hóa là mức độ sản xuất nội bộ liên quan đến việc tạo ra giá trị tổng thể. Mặc dù không nhìn thấy năng lực cốt lõi trong các quy trình hỗ trợ và giao dịch, các ngân hàng vẫn thể hiện mức độ sản xuất nội bộ cao trong các lĩnh vực này. Ví dụ, các ngân hàng trực tiếp có mức sản xuất nội bộ trung bình là 50%, các ngân hàng nhỏ là 80% và các ngân hàng lớn là 70%. Một xu hướng chính là các dịch vụ không chỉ bắt nguồn từ các mối quan hệ cung ứng song phương, mà có xu hướng trở nên nhỏ hơn về độ chi tiết của chúng (Malone và cộng sự, 2011). Xu hướng “siêu chuyên môn hóa” này dẫn đến các mô hình tìm nguồn cung ứng hoàn toàn mới, chẳng hạn như nguồn cung ứng cộng đồng được kích hoạt thông qua các thị trường dịch vụ điện tử. Công ty Local Motors, Hoa Kỳ, một nhà cung cấp cho BMW, chỉ sử dụng 100 công nhân, trong khi có 40.000 nhà phát triển khác được sử dụng cung cấp cho các nhiệm vụ khác nhau.

(3) Tăng cường công nghiệp hóa: Thuật ngữ công nghiệp hóa bắt nguồn từ việc chuyển đổi xã hội từ nông nghiệp sang công nghiệp và tiếp tục phát triển với chủ nghĩa Taylor2. Nguyên tắc cơ bản là có thể đạt được hiệu quả cao thông qua việc xác định các hoạt động nhỏ, được tiến hành tương tự như những hoạt động mà Henry Ford (người sáng lập Công ty Ford Motor) đã giới thiệu với cách tiếp cận sản xuất hàng loạt đối với dây chuyền lắp ráp ô tô. Theo thời gian, công nghiệp hóa được bổ sung với các nguyên tắc khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn hóa, tự động hóa và định hướng chất lượng. Việc áp dụng các nguyên tắc đó vào các ngành dịch vụ đang ngày càng phát triển, vì việc tiêu chuẩn hóa các dịch vụ, chẳng hạn như các sản phẩm ngân hàng, vẫn chưa chín muồi như những chiếc đinh vít được sử dụng trong xe hơi. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc áp dụng các cơ chế công nghiệp hóa vào ngành Ngân hàng. Ví dụ, một cuộc khảo sát đã xác định được 700 quy trình đầu cuối (end - to - end) trong các ngân hàng, trong đó khoảng một nửa có thể được tự động hóa hoàn toàn (Hirt và Willmott, 2014). Các dịch vụ như vậy đã được cung cấp thông qua các cửa hàng ứng dụng doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) như DNA App Store hoặc Yodlee ở Hoa Kỳ. Các công ty này cung cấp thị trường dịch vụ điện tử cho các ngân hàng và là nhà cung cấp nơi các ngân hàng có thể tùy chỉnh dịch vụ của họ.

Hiệu quả hoạt động sẽ trở thành nguồn lợi thế cạnh tranh quan trọng của các ngân hàng trong tương lai. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả cao trong hoạt động và chứng minh sự bền vững của các mô hình kinh doanh hoàn toàn mới lấy khách hàng làm trung tâm. Điều này đang đặt ra những câu hỏi cho các nhà quản lý và điều hành về mô hình hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới: (i) Mức độ ứng dụng tối đa các thông lệ tốt nhất trong công nghiệp hóa tại các ngành sản xuất hàng hóa vật chất vào trong lĩnh vực ngân hàng là bao nhiêu để áp dụng vào việc xây dựng các mô hình hoạt động của ngân hàng trong tương lai dựa trên các quy trình và dịch vụ được công nghiệp hóa? (ii) Làm thế nào để các dịch vụ có thể được chia thành nhiều phần chi tiết hơn và những mô hình tìm nguồn cung ứng mới nào có thể được áp dụng để các dịch vụ được tạo nguồn ở cấp độ của các nhiệm vụ đơn lẻ (siêu chuyên môn hóa) cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng sáng tạo?

(iii) Làm thế nào các quy trình ngân hàng và cấu ​​trúc ứng dụng (ngân hàng lõi) của nhiều nhà cung cấp có thể được chuẩn hóa để đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hóa và cho phép các mô hình tìm nguồn cung ứng linh hoạt?

Sự phát triển đó có thể dẫn đến việc tổ chức lại toàn bộ hệ thống ngân hàng các quốc gia và toàn cầu hiện có. Các hệ quả đối với ngành Ngân hàng có thể được cấu trúc theo cấp độ đổi mới (gia tăng so với đột phá) và các quy trình ngân hàng lõi (hỗ trợ so với kinh doanh trực tiếp) và có khả năng dẫn đến những mô hình mới cho các ngân hàng.

Mặc dù sự chuyển đổi trong ngành Ngân hàng đặt ra những thách thức lớn đối với hiện trạng, nhưng nó chứa đựng nhiều cơ hội cho những tổ chức phải đối mặt với sự chuyển đổi này. Đến nay, vẫn có nhiều người xem Fintech chỉ như là “hệ thống chuyển động” mới, tương tự như sự thay đổi từ video ghi âm sang video youtube. Nhưng như lịch sử đã chỉ ra, việc chuyển đổi sang cơ sở hạ tầng mới thường hay dẫn đến việc cơ cấu lại cơ bản hiện trạng. Không phụ thuộc vào bất kỳ thành công hay thất bại nào của các ngân hàng đơn lẻ, sự chuyển đổi của Ngành đang dẫn đến thay đổi về chất như một phần cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Do đó, việc đầu tư nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu về hệ thống tài chính phát triển trong tương lai là rất cần thiết.

1 Điểm cơ bản = 1/100 của 1%.
2 Taylorism: Quản lý theo khoa học là lý thuyết quản lý dựa trên quá trình phân tích, tổng hợp các quy trình công việc nhằm nâng cao năng suất lao động.


Dương Quốc Anh
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng