Vai trò của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam trong hỗ trợ tăng tính liên kết hệ thống

Hoạt động ngân hàng
Bài viết phân tích vai trò và hoạt động của Hiệp hội QTDND trong tăng cường liên kết hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chỉ ra các hạn chế hiện tại và đề xuất giải pháp khắc phục.
aa

Tóm tắt: Bài viết này tập trung nghiên cứu vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam (Hiệp hội QTDND) trong tăng cường tính liên kết hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Bài viết chỉ ra những hạn chế hiện nay của các QTDND; đồng thời phân tích các hoạt động hỗ trợ của Hiệp hội QTDND, qua đó, đề xuất một số giải pháp khắc phục.

Từ khóa: Tính liên kết hệ thống, hệ thống QTDND, Hiệp hội QTDND.

THE ROLE OF VIETNAM ASSOCIATION OF PEOPLE'S CREDIT FUNDS IN SUPPORTING GREATER SYSTEM INTEGRATION

Abstract: This article focuses on examining the role, functions, responsibilities of Vietnam Association of People’s Credit Funds in supporting People's Credit Fund to improve system integration. The article highlights the current limitations of People’s Credit Funds and analyzes the supporting activities by Association of People’s Credit Funds. Based on this analysis, several solutions are proposed to address existing challenges.

Keywords: System integration, People’s Credit Funds system, Association of People’s Credit Funds.

Hệ thống QTDND được thành lập theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ triển khai Đề án thí điểm thành lập QTDND, thuộc loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) là hợp tác xã, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và từng thành viên, giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cải thiện đời sống nhân dân.

Ngày 10/10/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND, theo đó, chỉ đạo hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của các QTDND theo hướng chuyển dần từ mô hình bao gồm QTDND, QTDND khu vực và QTDND Trung ương sang mô hình chỉ còn QTDND cơ sở và QTDND Trung ương.

Đến năm 2013, theo quy định của Luật Các TCTD và Thông tư số 31/2012/TT-NHNN ngày 26/11/2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về Ngân hàng Hợp tác xã, theo đó, QTDND Trung ương đã chuyển đổi thành Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) với hoạt động chủ yếu là điều hòa vốn và thực hiện các hoạt động ngân hàng đối với thành viên là các QTDND.

Sau 30 năm hoạt động, hệ thống QTDND và Co-opBank đã không ngừng hoàn thiện, phát triển và chứng minh là một tổ chức có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế địa phương, hỗ trợ các đối tượng thuộc tài chính toàn diện tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng.

Trong dòng chảy phát triển hệ thống, Hiệp hội QTDND chính thức được thành lập từ năm 2006, là tổ chức xã hội nghề nghiệp do các QTDND tự nguyện thành lập nhằm mục đích tập hợp, động viên các hội viên hợp tác, hỗ trợ nhau trong hoạt động, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, hỗ trợ đào tạo; kết nối hội viên với cơ quan quản lý Nhà nước; tuyên tuyền cơ chế chính sách của Nhà nước tới các hội viên, đồng thời tổ chức liên kết giữa các hội viên nhằm hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần đảm bảo cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn, lành mạnh và phát triển bền vững. Tính đến tháng 02/2025, Hiệp hội QTDND đã có 1.147 hội viên, bao gồm: Co-opBank là hội viên lớn, hội viên sáng lập Hiệp hội QTDND và 1.146 QTDND (chiếm 97,2% tổng số QTDND trên cả nước). Về cơ bản, kể từ khi thành lập đến nay, Hiệp hội QTDND đã phát huy được vai trò và nhiệm vụ của mình, đặc biệt có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tính liên kết hệ thống đối với hội viên là các QTDND và Co-opBank.

1. Hiệp hội QTDND cung cấp nền tảng giao lưu, hợp tác và tăng tính tuân thủ

Nhìn lại sự phát triển của hệ thống QTDND có thể thấy rõ thế mạnh của các QTDND so với các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của các đối tượng yếu thế. Hệ thống QTDND hoạt động ở nhiều địa bàn mà ở đó các NHTM khó tiếp cận. Hơn nữa, các QTDND bám sát người dân trên địa bàn, được người dân tin cậy nên thuận lợi hơn trong việc tuyên truyền, tư vấn tài chính. Tuy nhiên, các lợi thế này dần mất đi khi các NHTM ứng dụng mạnh mẽ công nghệ 4.0 vào sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Điều này đòi hỏi các QTDND phải có giải pháp phù hợp với tình hình mới, đổi mới hoạt động, nâng cao sức hút đối với thành viên. Liên kết hệ thống là một trong những giải pháp quan trọng để hỗ trợ các QTDND gia tăng tính cạnh tranh.

Nhận thức rõ những thách thức hoạt động của hệ thống QTDND trong tiến trình phát triển, ngay từ khi đi vào hoạt động, Hiệp hội QTDND đã tập trung tạo ra môi trường để các QTDND có thể gặp gỡ, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động. Hằng năm, Hiệp hội QTDND tổ chức các khóa đào tạo, khảo sát thực tế để hỗ trợ các QTDND nâng cao trình độ, năng lực quản trị và nghiệp vụ. Các khóa học này là môi trường rất quan trọng để các QTDND giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau về quản lý và xử lý vướng mắc, qua đó đồng bộ hóa các hoạt động trong hệ thống.

Từ năm 2020 - 2024, Hiệp hội QTDND đã tổ chức được 29 khóa học về nghiệp vụ cho 2.442 học viên, 05 khóa đào tạo bồi dưỡng cấp chứng chỉ kế toán trưởng cho 407 học viên đang làm việc tại QTDND, 28 khóa học chuyên sâu cho 2.698 học viên với các nội dung như: Kiến thức pháp luật liên quan đến quan hệ dân sự; chiến lược cạnh tranh trong nền kinh tế số; kỹ năng lãnh đạo; hướng dẫn áp dụng ba loại thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và các vướng mắc liên quan đến hoạt động QTDND; hướng dẫn đọc báo cáo tài chính, quản trị rủi ro, chuyển đổi số hệ thống QTDND từ nhận thức đến hành động; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng và cách thức khắc phục tại các QTDND...

Thực hiện Văn bản số 1203/NHNN-TTGSNH ngày 27/02/2023 của NHNN về việc hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến QTDND, năm 2023 - 2024, Hiệp hội QTDND đã phối hợp chặt chẽ với Co-opBank và các cơ sở đào tạo tổ chức 20 khóa đào tạo với 02 nội dung cơ bản là “Nghiệp vụ tín dụng” và “Kiểm soát, kiểm toán nội bộ”. Các khóa đào tạo đã thu hút được 4.743 học viên trong toàn hệ thống QTDND, góp phần nâng cao năng lực và trình độ cho lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ của QTDND, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và tư vấn giải quyết những vấn đề phức tạp trên thực tế mà các QTDND đang gặp phải. Trong suốt thời gian diễn ra các khóa học, học viên không chỉ tiếp thu được những kiến thức mới mà còn đánh giá rất cao về công tác tổ chức của Hiệp hội QTDND với phương thức đào tạo đổi mới, chất lượng giảng viên cũng như kiến thức mới đã mang lại nhiều điều bổ ích cho các QTDND.

Bên cạnh đó, Hiệp hội QTDND cũng thường xuyên có những văn bản khuyến nghị, cung cấp thông tin về các quy định, chính sách mới trong lĩnh vực hoạt động của QTDND và cảnh báo tình hình thay đổi thị trường, nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến hoạt động của QTDND qua các hình thức như gửi văn bản, gửi thư, đăng trên trang Web của Hiệp hội. Đặc biệt, Hiệp hội QTDND dành một chuyên mục hỏi đáp pháp luật trên trang Web nhằm tư vấn, hỗ trợ các QTDND tuân thủ đúng quy định pháp luật, qua đó nâng cao tính ổn định và uy tín của hệ thống QTDND.

2. Mở ra các hoạt động kết nối tăng cường sức mạnh tập thể

Ngoài việc phối hợp triển khai công tác đào tạo, Hiệp hội QTDND đã cùng với Co-opBank nghiên cứu và đưa ra các dự thảo quy định nội bộ mẫu về Điều lệ QTDND; quy định về cho vay đối với thành viên; quy định về giao dịch bảo đảm; quy định về giao dịch tiền gửi tiết kiệm; quy định về quản lý sổ tiết kiệm và ấn chỉ có giá; quy định về giới hạn, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của QTDND; danh mục các văn bản quy định nội bộ cần ban hành; Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ QTDND… giúp các QTDND ban hành các quy định nội bộ đúng pháp luật, tự xây dựng đề cương chiến lược phát triển QTDND.

Cùng với các hoạt động chuyên môn, thời gian qua, Hiệp hội QTDND đã tạo ra sân chơi gắn kết tập thể như tổ chức các hội thảo, tọa đàm trao đổi về cơ chế chính sách, tổ chức hội thao trong toàn hệ thống. Trong năm 2020, Hiệp hội QTDND đã tổ chức thành công hội thao cho hệ thống QTDND khu vực miền Bắc và miền Trung với sự tham gia của 12 đoàn với hơn 800 vận động viên và cổ động viên đến từ gần 500 QTDND. Đó không chỉ là sân chơi thể thao mà còn là cơ hội để các thành viên giao lưu, học hỏi, thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, vui khỏe vì sự lớn mạnh của hệ thống QTDND. Tiếp nối thành công đó, năm 2023, Hiệp hội QTDND đã phối hợp với Co-opBank tiếp tục tổ chức 02 đợt hội thao với phạm vị rộng hơn, số lượng hội viên tham gia đông hơn (khoảng trên 2.500 người) của tất cả QTDND và Co-opBank. Bên cạnh ý nghĩa của việc nâng cao rèn luyện sức khỏe, các hội thao đã tạo thêm nhiều cơ hội gắn kết giữa các QTDND và Co-opBank để tăng cường giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm, thông tin nhiều hơn về hoạt động của hệ thống QTDND, tạo động lực cho cán bộ QTDND và Co-opBank hăng hái hơn vì sự phát triển của hệ thống. Năm 2024, Hiệp hội QTDND đã tổ chức Chương trình Giải chạy “QTDND & Co-opBank Run - 2024” dành cho hệ thống QTDND và Co-opBank thuộc Văn phòng đại diện Thành phố Hà Nội. Với gần 400 người tham gia thi đấu và cổ vũ, giải chạy được xem mang tính quy mô và có sức lan tỏa tới cộng đồng. Hệ thống QTDND và Co-opBank đã khẳng định năng lực và sự cống hiến những giá trị thiết thực cho cộng đồng, xã hội. Sự tham gia đông đảo, nhiệt tình của các thành viên một lần nữa khẳng định sức mạnh đoàn kết, sự quyết tâm, đồng lòng, đồng sức vì một hệ thống phát triển, vững mạnh và trên tất cả là sự tin tưởng, ủng hộ của hội viên, sự đánh giá cao của các cơ quan quản lý Nhà nước dành cho Hiệp hội QTDND.

Cùng với đó, Hiệp hội QTDND đã tổ chức nghiên cứu, xin ý kiến chuyên gia để xây dựng logo cho các QTDND, cho đến nay tất cả các QTDND đều sử dụng logo này. Trong năm 2021, sau khi khảo sát, nghiên cứu cho thấy biển hiệu các QTDND không đồng nhất trong toàn quốc, ảnh hưởng đến sự nhận diện, uy tín và liên kết hệ thống. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hiệp hội QTDND đã chỉ đạo phải thống nhất biển hiệu và bộ nhận diện cho toàn hệ thống QTDND. Với sự quyết tâm cao, Hiệp hội QTDND và Co-opBank đã và đang tiếp tục hoàn thiện bộ nhận diện cho các QTDND trong toàn quốc. Trong năm 2024, đã thí điểm 10 QTDND sử dụng biển hiệu, logo, slogan mới... Điều này đã tạo nên tính liên kết không thể tách rời và gia tăng sự nhận diện hệ thống QTDND trên toàn quốc.

Tất cả những hoạt động trên đã làm tăng sức mạnh của hệ thống, tạo ra tiếng nói chung vì sự phát triển an toàn và bền vững, tạo điều kiện để các QTDND phát huy hiệu quả thế mạnh mang đến nhiều lợi ích cho các thành viên.

3. Điểm tựa hỗ trợ về công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong bối cảnh hiện đại hóa, số hóa nền kinh tế, việc nâng cao năng lực cho các QTDND là yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhận thức rõ vấn đề này, Hiệp hội QTDND đã thúc đẩy việc áp dụng công nghệ mới trong quản lý và điều hành hỗ trợ các sáng kiến mới, sáng tạo trong việc cải tiến sản phẩm, dịch vụ tài chính của các QTDND thông qua việc xây dựng, vận hành Công ty TNHH Phát triển và ứng dụng tin học trực thuộc Hiệp hội (Công ty tin học) từ ngày 12/8/2008. Những năm qua, sản phẩm phần mềm của Công ty tin học luôn được các QTDND đánh giá là chương trình dễ khai thác sử dụng, phù hợp với hệ thống QTDND.

Hiện nay, Công ty tin học đã triển khai phần mềm cho hơn 404 QTDND trên địa bàn 39 tỉnh, thành phố khắp cả nước và 01 Hội Phụ nữ nghèo ở tỉnh Phú Thọ. Với mục tiêu luôn đồng hành và hỗ trợ các QTDND khai thác tối đa, hiệu quả các tính năng, tiện ích, hệ thống báo cáo của phần mềm quản lý nghiệp vụ ITD-VAPCF, cũng như thường xuyên chú trọng nâng cấp, phát triển phần mềm nhằm phục vụ hiệu quả hội viên. Công ty tin học đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết của việc tin học hóa hoạt động của các QTDND hội viên, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ hội viên thông qua khai thác sử dụng phần mềm ITD-VAPCF. Việc phát triển phần mềm ITD-VAPCF quản lý dành cho hệ thống QTDND và phần mềm báo cáo theo yêu cầu của NHNN trong từng giai đoạn của Công ty phát triển Công nghệ tin học ITD-VAPCF cũng đã được các hội viên ghi nhận hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản lý, điều hành quỹ.

Hiệp hội QTDND đã phối hợp với Co-opBank hỗ trợ các QTDND chuyển đổi số qua việc mở các lớp học nâng cao nhận thức cho lãnh đạo và cán bộ, nghiên cứu đề xuất kế hoạch, lộ trình, chiến lược bước vào hành trình chuyển đổi số của QTDND.

Có thể nói, bằng cách kết nối các QTDND trong một mạng lưới liên kết, Hiệp hội QTDND đã tạo dựng một hệ thống các QTDND có kết nối chặt chẽ, đồng bộ, góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động và đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế. Điều này không chỉ có lợi cho các QTDND mà còn giúp cho các cộng đồng mà QTDND phục vụ thông qua việc cung cấp nhiều dịch vụ tín dụng hợp lý, hiệu quả. Xét toàn diện, tính liên kết hệ thống QTDND đã có sự đổi mới, đi vào chiều sâu, tuy nhiên vẫn còn có những khía cạnh chưa thực sự chặt chẽ, chưa phát huy hết tiềm năng thực sự của mô hình hợp tác xã.

4. Tháo gỡ rào cản, tăng cường tính liên kết hệ thống

Xét trên khía cạnh kinh tế, tính liên kết hệ thống chỉ chặt chẽ khi các mối liên kết dọc, ngang được hình thành trên cơ sở lợi ích giữa các bên được đảm bảo. Tính liên kết hệ thống đối với hệ thống QTDND bao gồm: Mối liên kết dọc giữa QTDND với các thành viên; mối liên kết ngang giữa các QTDND với nhau và với Co-opBank. Hiện nay các mối liên kết này đã được hình thành, nhưng tính chặt chẽ chưa cao.

Thực tế thời gian qua cho thấy, thành viên của các QTDND chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động của các QTDND, đôi khi còn lúng túng trong việc giám sát hoạt động của QTDND. Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội QTDND, do đặc tính vốn có của người dân trên địa bàn nông thôn có suy nghĩ đơn giản, cùng với hiểu biết hạn chế về tài chính, ngân hàng nên người dân ít quan tâm, tìm hiểu sâu về hoạt động của QTDND. Nhiều người dân trở thành thành viên của QTDND xuất phát từ lòng tin, sự tín nhiệm đối với người đứng đầu QTDND hơn là sự hiểu biết những quy định có tính pháp lý đối với hoạt động của QTDND, do đó, sự gắn kết của thành viên đối với QTDND chưa cao…

Để tăng cường mối liên kết dọc giữa QTDND và thành viên thì việc thiết lập một cơ chế kiểm soát nội bộ, gia tăng vai trò giám sát của các thành viên đối với hoạt động của QTDND cần được nghiên cứu thêm để có giải pháp phù hợp, có tính khả thi. Các giải pháp cần hướng tới bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các bên.

Hiện nay, nhiều QTDND đã thực hiện những giải pháp dựa trên cơ sở tạo lợi ích từ QTDND cho các thành viên như thăm hỏi, tham gia các phong trào đền ơn đáp nghĩa tại địa phương để hỗ trợ thành viên; thực hiện khen thưởng đối với các thành viên tại kỳ Đại hội QTDND… Tuy nhiên, để tính liên kết ngang trong chính các QTDND tăng lên, trong bối cảnh hiểu biết về tài chính của thành viên còn hạn chế, QTDND cần chủ động tiếp cận sâu hơn thông qua việc thông tin với thành viên về quyền và nghĩa vụ trong việc sử dụng những sản phẩm của QTDND; phổ biến cho thành viên những kiến thức cơ bản về việc lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh, quản lý dòng tiền thu nhập và chi phí, lên phương án/dự án vay vốn QTDND; tạo lập thói quen tiết kiệm, lựa chọn sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của QTDND…, từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và cải thiện đời sống gia đình của thành viên giúp cho thành viên thấy được lợi ích thực sự khi gắn bó với QTDND.

Trong mối liên kết ngang này, vai trò của Co-opBank là rất quan trọng để gia tăng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số của QTDND cung ứng cho thành viên, hỗ trợ các QTDND bước sâu vào hành trình chuyển đổi số dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại của Co-opBank. Để tăng cường mối liên kết này, trước hết cần nâng cao vai trò đầu mối của Co-opBank, nâng cao năng lực tài chính cho Co-opBank qua việc cấp thêm vốn điều lệ lên 5.000 tỉ đồng, đầu tư đổi mới công nghệ để Co-opBank phát huy hiệu quả vai trò là ngân hàng của tất cả các QTDND.

Về phía Hiệp hội QTDND, thời gian tới, cần tiếp tục phát huy vai trò của mình để hỗ trợ các QTDND hội viên trong quá trình phát triển, tăng cường liên kết dọc. Trong đó, đẩy mạnh công tác tư vấn, đào tạo cho các QTDND không chỉ quản trị điều hành, kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, phát triển bộ nhận diện thương hiệu của hệ thống mà còn trang bị cho các QTDND những kiến thức về chăm sóc thành viên, phổ biến những kiến thức tài chính… để các QTDND tiếp cận gần hơn các thành viên của mình và thực hiện đúng tôn chỉ mục đích là TCTD hợp tác xã. Đồng thời, Hiệp hội QTDND tiếp tục làm tốt vai trò cầu nối với các cơ quan quản lý Nhà nước để kịp thời phản biện và đề xuất, kiến nghị tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, nhân rộng hình ảnh, thương hiệu của hệ thống QTDND và Co-opBank trên toàn quốc.■

Tài liệu tham khảo:

1. Đề tài nghiên cứu khoa cấp cơ sở “Giải pháp cải thiện vai trò của Hiệp hội QTDND Việt Nam", Mã số: ĐTNH-CS.006/19.

2. Website NHNN.

Nguyễn Đức Dũng
Tổng Thư ký Hiệp hội QTDND

Tin bài khác

Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Tác động của chương trình tín dụng vi mô đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tỉnh Bắc Ninh

Chương trình tín dụng vi mô là một bộ phận quan trọng của thị trường tín dụng chính thức ở khu vực nông thôn Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Việc tham gia các chương trình này mang lại cho phụ nữ nhiều cơ hội việc làm, tăng sự tự tin, nâng cao kỹ năng giao tiếp, khả năng quản lý tài chính cá nhân, tiếp cận tri thức và mở rộng cơ hội lựa chọn trong đời sống. Nhờ đó, họ có điều kiện khẳng định vai trò và quyền ra quyết định của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Phát triển bền vững hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân dưới góc nhìn ESG

Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam - dù được hình thành từ rất sớm và đóng vai trò đặc thù là tổ chức tài chính cộng đồng cấp cơ sở - vẫn gần như đứng ngoài dòng vận động ESG quốc tế.
Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Khơi thông dòng vốn cho vay nhà ở xã hội

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân cho vay nhà ở xã hội đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng. Tuy nhiên so với quy mô chương trình, doanh số giải ngân vẫn chưa được như kỳ vọng.
Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 dẫn dắt dòng vốn phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15, hoạt động trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Cà Mau, đóng vai trò trụ cột trong việc dẫn vốn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế địa phương. Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2025 đạt mức từ 8,5% trở lên.
Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang đối mặt với nhiều biến động khó lường, cùng với quá trình chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, rủi ro liên quan đến thẻ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Việc kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ, quản trị rủi ro chủ động và nâng cao nhận thức người tiêu dùng sẽ là nền tảng quan trọng giúp thị trường thẻ tín dụng Việt Nam phát triển an toàn, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Bài viết phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và lộ trình xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững của Agribank theo các chuẩn mực quốc tế, qua đó làm rõ vai trò của báo cáo như một công cụ chiến lược giúp nâng cao minh bạch môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG), tăng khả năng tiếp cận vốn xanh và uy tín thương hiệu.
Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô