Tín dụng học sinh, sinh viên: Tiếp sức xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao quốc gia

Hoạt động ngân hàng
7 năm triển khai Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên (HSSV), đặc biệt, từ sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội...
aa

17 năm triển khai Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên (HSSV), đặc biệt, từ sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, chương trình tín dụng đối với HSSV thực sự trở thành chương trình tín dụng lớn, không chỉ hỗ trợ HSSV không phải bỏ học vì khó khăn về kinh tế mà còn góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đưa Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực địa phương

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hưng Yên, Trưởng Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Hưng Yên Nguyễn Lê Huy cho biết, theo Quy hoạch tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 489/QĐ-TTg ngày 10/6/2024, tỉnh Hưng Yên được Quy hoạch 35 khu công nghiệp và 50 cụm công nghiệp. Tính đến nay, tỉnh Hưng Yên đã giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng hạ tầng với gần 3.000 ha để sẵn sàng cho việc tiếp nhận các dự án đầu tư. Chính vì vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực đối với địa phương là rất cấp thiết.

Theo dự tính đến năm 2030, mỗi năm, tỉnh Hưng Yên có thêm khoảng 30.000 lao động có việc làm, trong đó Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đặt ra là trên 71% lao động qua đào tạo. “Vì vậy, bên cạnh việc ban hành nhiều chính sách, bố trí nguồn lực để hỗ trợ đào tạo nghề, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, UBND tỉnh đã chỉ đạo Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hưng Yên phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương các cấp thực hiện tốt công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện chính sách tín dụng đối với HSSV theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg, thực hiện chủ trương không để HSSV nào phải bỏ học vì khó khăn về tài chính”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Lê Huy cho biết.



Nguồn vốn tín dụng HSSV đã hỗ trợ em Vũ Văn Anh theo đuổi ước mơ học đại học

Kết quả chỉ riêng 10 năm trở lại đây, đã có hơn 6 nghìn HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn, giúp các em có cơ hội học tập, phấn đấu cho tương lai, đồng thời đây cũng là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển tỉnh Hưng Yên trong hiện tại và tương lai.

Như trường hợp em Vũ Văn Anh, lớp 106214 Khoa Cơ khí Động lực của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, cư trú tại Thôn Hạ, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cuộc sống rất khó khăn khi nhà có 3 anh em đang tuổi ăn, tuổi học, trông cả vào việc cha mẹ đi làm thợ xây. Bà Lê Thị Nga, mẹ của Vũ Văn Anh cho biết, năm đầu tiên con đi học dù khó khăn nhưng gia đình vẫn cố gắng gồng gánh lo cho con ăn học. Tuy nhiên, bước vào năm học thứ 2, bà Nga phát hiện mình bị bệnh tim nặng, chỉ tính riêng tiền thuốc mỗi tháng đã tiêu tốn khoảng 3,5 triệu đồng, chưa kể chi phí phẫu thuật.

“Lúc đó tôi rất hoang mang, không biết tương lai mình ra sao”, bà Nga tâm sự. Trước đây, cả hai vợ chồng đi làm được 550 nghìn đồng/ngày, làm đủ cả tháng cũng được 17 triệu đồng, nhưng khi bà Nga ốm, trông cả vào thu nhập của chồng là 12 triệu đồng, không đủ chi tiêu, thuốc thang. “Nếu không vay được nguồn vốn tín dụng HSSV, gia đình cũng không có nguồn thu nào thêm cho cháu đi học, chắc chắn cháu phải bỏ học”, bà Nga cho biết.

Cũng nhờ nguồn vốn vay HSSV, đến nay, Vũ Văn Anh đã bước vào năm học thứ 4. Gánh nặng chi phí tài chính cho con ăn học giảm giúp bà Nga dành dụm được tiền để phẫu thuật tim lần thứ nhất. Năm nay, con trai thứ hai của bà Nga cũng đỗ vào trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, còn bà thì đang gom góp có đủ tiền để làm phẫu thuật tim lần thứ hai vào tháng 10/2024. Nhiều người khuyên bà Nga cho con nghỉ học, đi làm đỡ đần cha mẹ, song bà nghĩ “đời mình đã khổ chỉ mong con mình sau này có tương lai tươi sáng hơn bố mẹ”. Vì vậy, bà Nga lại tiếp tục làm hồ sơ vay cho con thứ hai đi học. “Chúng tôi nghĩ, cố gắng tạo hết mọi điều kiện cho con đi học, mẹ bị bệnh nhưng không vì thế mà con phải nghỉ học. Tất cả là đều nhờ NHCSXH đã tạo điều kiện giúp cho gia đình được tiếp cận nguồn vốn vay HSSV để các cháu có cơ hội học tập, tạo dựng tương lai”, bà Nga chia sẻ.

Ông Nguyễn Minh Quý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên cho biết, sinh viên học tại trường đến từ các tỉnh, thành trong cả nước, phần lớn là con em nông dân, điều kiện kinh tế gia đình nhiều em còn khó khăn, cần hỗ trợ tài chính để học tập. Chính vì vậy, ngay từ khi các em nhập trường, nhà trường đã phối hợp với NHCSXH tuyên truyền chương trình tín dụng HSSV, đồng thời, tạo điều kiện cấp giấy xác nhận học tập tại trường hằng năm để các em kịp thời vay vốn. Bình quân hằng năm có khoảng 450 - 500 sinh viên của nhà trường vay vốn HSSV để học tập.

Ông Nguyễn Minh Quý cũng cho biết, khóa 18 của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên có hai em là thành viên xuất sắc của đội tuyển Robocon giành giải Nhất và giải Nhì trong Chung kết cuộc thi sáng tạo Robot Việt Nam - Robocon Việt Nam 2024 và một em đạt giải quốc gia trong kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh toàn quốc cũng đang vay vốn HSSV để học tập. “Đây là minh chứng cho thấy chính sách cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn là quan trọng hỗ trợ không chỉ cho sinh viên mà cả nhà trường trong việc thực hiện chủ trương đào tạo sinh viên khoa học kỹ thuật có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu xã hội và định hướng phát triển công nghiệp của cả nước”, ông Quý chia sẻ.

Điều tra, khảo sát của nhà trường cho thấy, sinh viên của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên khi ra trường làm việc tại các sở, ngành, doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong tỉnh luôn được đánh giá cao. 60 - 70% có việc làm trong 3 tháng đầu tiên và tỉ lệ này lên tới hơn 90% sau một năm ra trường.

Động năng phát triển cho các địa phương

Hiệu ứng dòng chảy tín dụng chính sách càng thêm mạnh khi nhiều HSSV sau khi được vay vốn đi học và tốt nghiệp ra trường đã trở về nơi “chôn rau cắt rốn”, vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc góp phần kiến thiết địa phương.

Như ở Thượng Nông, xã nghèo nhất của huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, nhờ có nguồn vốn tín dụng HSSV mà ông Lường Xuân Việt, dân tộc Tày, thôn Bản Khoan, xã vùng III Thượng Nông đã gồng gánh được 8 đứa con học hành đến nơi đến chốn. Trong đó, 5 người tốt nghiệp đại học, 1 người tốt nghiệp cao đẳng, 2 người tốt nghiệp trung cấp nghề. Đặc biệt, con gái ông là Lường Thị Oanh, tốt nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) hiện đang công tác tại UBND xã Thượng Nông trên cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã, đang hằng ngày cùng NHCSXH hỗ trợ bà con xã Thượng Nông tiếp cận tín dụng, phát triển kinh tế, gieo thêm niềm tin và hy vọng đổi đời cho những người dân vùng quê nghèo khó.

Đối với gia đình ông Vi Văn Tiên, dân tộc Nùng, xóm Làng Tràng, xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên thì niềm tự hào không chỉ là gia đình ông đã ra khỏi danh sách hộ nghèo, hiện có 1 ha bưởi chuyển đổi từ trồng ngô cùng 1 mẫu ruộng và thu nhập làm công nhật những ngày nông nhàn đủ để gia đình ông có cuộc sống ổn định, mà hơn thế là 3 đứa con đều học đại học, tốt nghiệp ra trường, hiện tại đang tận lực đóng góp vào sự nghiệp trồng người và chăm sóc sức khỏe người dân Thái Nguyên.

Chị Vi Thị Phụng, con gái lớn của ông Tiên giờ đang là giáo viên Trường Tiểu học Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Ngày ấy nhà em thuần nông, công việc trong gia đình do em đỡ đần hết, nên khi nhận được giấy trúng tuyển Trường Cao đẳng Thái Nguyên, em đã rất lo lắng và có ý định nghỉ học để đỡ tạo gánh nặng kinh tế cho gia đình. Nhờ có sự động viên của gia đình, em có suy nghĩ tích cực hơn về tương lai cho bản thân, gia đình và xã hội. Em quyết tâm theo đuổi ước mơ trở thành cô giáo đưa con chữ, mang tương lai tri thức đến cho các em, cũng như mong muốn bản mình vươn lên thoát khỏi cuộc sống khó khăn và có thể giúp đỡ bố mẹ”. Ước mơ của chị Phụng giờ đã trở thành hiện thực. Bên mái ấm với người chồng cũng là đồng nghiệp và sự yêu thương của gia đình, chị Phụng càng có thêm động lực, niềm tin, ý chí mang những con chữ và tri thức thắp sáng tương lai cho các con em quê hương mình.

Đó chỉ là một vài nét sơ thảo về hiệu quả của việc triển khai chính sách tín dụng HSSV thời gian qua. Hiện nay, mức cho vay đối với HSSV được nâng lên, lãi suất cho vay của chương trình tín dụng HSSV được điều chỉnh theo hướng linh hoạt, phù hợp hơn với thực tế trong từng thời kỳ. Theo Quyết định số 05/2022/QĐ-TTg ngày 23/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg, chính sách tín dụng đối với HSSV được áp dụng để hỗ trợ cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của HSSV trong thời gian theo học tại trường bao gồm: Tiền học phí, chi phí mua sắm sách, vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại. Đối tượng vay vốn được mở rộng đến các HSSV có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các trường đại học (hoặc tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tại các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm: HSSV mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động; HSSV là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các đối tượng: Hộ nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật, hộ cận nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật, hộ có mức sống trung bình theo chuẩn quy định của pháp luật; HSSV mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với NHCSXH và các bộ, ngành liên quan thành lập Đoàn công tác liên ngành làm việc với một số ngân hàng và tập đoàn kinh tế để trao đổi, thảo luận các nội dung liên quan đến việc tham gia đóng góp nguồn vốn cho chương trình tín dụng HSSV. Các ngân hàng và tập đoàn kinh tế được tiếp xúc đều ủng hộ mục tiêu xã hội hóa nguồn vốn cho vay đối với chương trình tín dụng HSSV và coi đây là trách nhiệm mà các đơn vị sẵn sàng gánh vác cùng Chính phủ trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Một số đơn vị như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB)... đã tham gia đầu tư trái phiếu NHCSXH được Chính phủ bảo lãnh, qua đó gián tiếp tạo nguồn vốn cho NHCSXH để thực hiện cho vay chương trình tín dụng HSSV.

Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, NHCSXH trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện; giải đáp kịp thời những ý kiến thắc mắc trong quá trình thực hiện của các địa phương, cơ sở đào tạo và đối tượng thụ hưởng... Đồng thời, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai để kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Qua 17 năm thực hiện chương trình tín dụng HSSV, đã có trên 3,9 triệu lượt HSSV được vay hơn 80 nghìn tỉ đồng để trang trải chi phí học tập. Nguồn vốn tín dụng chính sách không chỉ tạo chỗ dựa, niềm tin cho HSSV nghèo mà còn góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc gia.

Chính sách cần bao quát và đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW nhận định: “Kết quả đạt được cho thấy, đây là một trong các chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ và tạo cơ hội cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt trong thời gian theo học tại trường. Chính sách này đã giúp cho một bộ phận nhân dân có thu nhập thấp có được sự bình đẳng về đào tạo, hỗ trợ kinh phí để theo học các bậc học khác nhau, kể cả đào tạo nghề, giúp họ có thể có một việc làm ổn định, phát triển kinh tế cho bản thân và gia đình”. Với ý nghĩa to lớn đó, chính sách tín dụng đối với HSSV đã đi vào cuộc sống, được nhân dân đón nhận và nhiệt tình ủng hộ.



Nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách, chị Vi Thị Phụng đã thực hiện được ước mơ

trở thành giáo viên Trường Tiểu học Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đây cũng là thách thức mới cho các nhà làm chính sách cũng như NHCSXH trong việc tận dụng chương trình tín dụng HSSV đáp ứng yêu cầu mới và vận hội nước nhà.

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai tín dụng HSSV cũng cho thấy một số vấn đề cần được tháo gỡ. Đặc biệt, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế số, xã hội số, nhu cầu vay vốn của sinh viên không dừng lại ở việc chi trả chi phí học tập mà còn phục vụ nhu cầu mua sắm các trang thiết bị phục vụ việc học tập, nghiên cứu ở mức độ cao như máy tính cá nhân tốc độ cao...

Hiện nay, tại một số địa phương, việc triển khai rà soát, xác định thu nhập của hộ gia đình có mức sống trung bình theo Quyết định số 24/2021/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022 -

2025; Thông tư số 07/2021/TT-BLĐTBXH ngày 18/7/2021 của Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn phương pháp rà soát, phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo, xác định thu nhập của hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022 - 2025 và mẫu biểu báo cáo thực hiện chưa kịp thời, các hộ dân mặc dù đã được tuyên truyền nhưng chưa chủ động, chưa mạnh dạn đề nghị chính quyền điều tra, xác nhận là hộ có mức sống trung bình để được vay vốn. Do đó, nhiều hộ chưa được tiếp cận nguồn vốn tín dụng HSSV.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc này, NHCSXH đã phối hợp với chính quyền địa phương và nhà trường để triển khai thực hiện chương trình tín dụng HSSV, nắm bắt tình hình HSSV vay vốn, phối hợp quản lý việc sử dụng nguồn vốn vay; tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể HSSV về ý nghĩa, mục đích của chương trình, nhắc nhở HSSV được vay vốn khi tốt nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ cho NHCSXH và yêu cầu sinh viên ký cam kết trả nợ trước khi tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần đề xuất với Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhu cầu vay vốn của HSSV, xây dựng các gói vay phù hợp với nhu cầu của HSSV; bảo đảm mức vay vốn đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, đủ để trang trải các chi phí học tập, đặc biệt tại các thành phố lớn. Đồng thời, nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ sinh viên tìm kiếm việc làm, khởi nghiệp hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp. Trong đó, có thể xây dựng, hình thành các Quỹ cộng đồng để giúp sinh viên tốt nghiệp có thể vay vốn phát triển các dự án khởi nghiệp.

Minh Ngọc (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng