Tín dụng học sinh, sinh viên: Tiếp sức xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao quốc gia

Hoạt động ngân hàng
7 năm triển khai Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên (HSSV), đặc biệt, từ sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội...
aa

17 năm triển khai Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên (HSSV), đặc biệt, từ sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, chương trình tín dụng đối với HSSV thực sự trở thành chương trình tín dụng lớn, không chỉ hỗ trợ HSSV không phải bỏ học vì khó khăn về kinh tế mà còn góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đưa Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực địa phương

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hưng Yên, Trưởng Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Hưng Yên Nguyễn Lê Huy cho biết, theo Quy hoạch tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 489/QĐ-TTg ngày 10/6/2024, tỉnh Hưng Yên được Quy hoạch 35 khu công nghiệp và 50 cụm công nghiệp. Tính đến nay, tỉnh Hưng Yên đã giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng hạ tầng với gần 3.000 ha để sẵn sàng cho việc tiếp nhận các dự án đầu tư. Chính vì vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực đối với địa phương là rất cấp thiết.

Theo dự tính đến năm 2030, mỗi năm, tỉnh Hưng Yên có thêm khoảng 30.000 lao động có việc làm, trong đó Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đặt ra là trên 71% lao động qua đào tạo. “Vì vậy, bên cạnh việc ban hành nhiều chính sách, bố trí nguồn lực để hỗ trợ đào tạo nghề, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, UBND tỉnh đã chỉ đạo Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hưng Yên phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương các cấp thực hiện tốt công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện chính sách tín dụng đối với HSSV theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg, thực hiện chủ trương không để HSSV nào phải bỏ học vì khó khăn về tài chính”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Lê Huy cho biết.



Nguồn vốn tín dụng HSSV đã hỗ trợ em Vũ Văn Anh theo đuổi ước mơ học đại học

Kết quả chỉ riêng 10 năm trở lại đây, đã có hơn 6 nghìn HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn, giúp các em có cơ hội học tập, phấn đấu cho tương lai, đồng thời đây cũng là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển tỉnh Hưng Yên trong hiện tại và tương lai.

Như trường hợp em Vũ Văn Anh, lớp 106214 Khoa Cơ khí Động lực của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, cư trú tại Thôn Hạ, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cuộc sống rất khó khăn khi nhà có 3 anh em đang tuổi ăn, tuổi học, trông cả vào việc cha mẹ đi làm thợ xây. Bà Lê Thị Nga, mẹ của Vũ Văn Anh cho biết, năm đầu tiên con đi học dù khó khăn nhưng gia đình vẫn cố gắng gồng gánh lo cho con ăn học. Tuy nhiên, bước vào năm học thứ 2, bà Nga phát hiện mình bị bệnh tim nặng, chỉ tính riêng tiền thuốc mỗi tháng đã tiêu tốn khoảng 3,5 triệu đồng, chưa kể chi phí phẫu thuật.

“Lúc đó tôi rất hoang mang, không biết tương lai mình ra sao”, bà Nga tâm sự. Trước đây, cả hai vợ chồng đi làm được 550 nghìn đồng/ngày, làm đủ cả tháng cũng được 17 triệu đồng, nhưng khi bà Nga ốm, trông cả vào thu nhập của chồng là 12 triệu đồng, không đủ chi tiêu, thuốc thang. “Nếu không vay được nguồn vốn tín dụng HSSV, gia đình cũng không có nguồn thu nào thêm cho cháu đi học, chắc chắn cháu phải bỏ học”, bà Nga cho biết.

Cũng nhờ nguồn vốn vay HSSV, đến nay, Vũ Văn Anh đã bước vào năm học thứ 4. Gánh nặng chi phí tài chính cho con ăn học giảm giúp bà Nga dành dụm được tiền để phẫu thuật tim lần thứ nhất. Năm nay, con trai thứ hai của bà Nga cũng đỗ vào trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, còn bà thì đang gom góp có đủ tiền để làm phẫu thuật tim lần thứ hai vào tháng 10/2024. Nhiều người khuyên bà Nga cho con nghỉ học, đi làm đỡ đần cha mẹ, song bà nghĩ “đời mình đã khổ chỉ mong con mình sau này có tương lai tươi sáng hơn bố mẹ”. Vì vậy, bà Nga lại tiếp tục làm hồ sơ vay cho con thứ hai đi học. “Chúng tôi nghĩ, cố gắng tạo hết mọi điều kiện cho con đi học, mẹ bị bệnh nhưng không vì thế mà con phải nghỉ học. Tất cả là đều nhờ NHCSXH đã tạo điều kiện giúp cho gia đình được tiếp cận nguồn vốn vay HSSV để các cháu có cơ hội học tập, tạo dựng tương lai”, bà Nga chia sẻ.

Ông Nguyễn Minh Quý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên cho biết, sinh viên học tại trường đến từ các tỉnh, thành trong cả nước, phần lớn là con em nông dân, điều kiện kinh tế gia đình nhiều em còn khó khăn, cần hỗ trợ tài chính để học tập. Chính vì vậy, ngay từ khi các em nhập trường, nhà trường đã phối hợp với NHCSXH tuyên truyền chương trình tín dụng HSSV, đồng thời, tạo điều kiện cấp giấy xác nhận học tập tại trường hằng năm để các em kịp thời vay vốn. Bình quân hằng năm có khoảng 450 - 500 sinh viên của nhà trường vay vốn HSSV để học tập.

Ông Nguyễn Minh Quý cũng cho biết, khóa 18 của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên có hai em là thành viên xuất sắc của đội tuyển Robocon giành giải Nhất và giải Nhì trong Chung kết cuộc thi sáng tạo Robot Việt Nam - Robocon Việt Nam 2024 và một em đạt giải quốc gia trong kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh toàn quốc cũng đang vay vốn HSSV để học tập. “Đây là minh chứng cho thấy chính sách cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn là quan trọng hỗ trợ không chỉ cho sinh viên mà cả nhà trường trong việc thực hiện chủ trương đào tạo sinh viên khoa học kỹ thuật có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu xã hội và định hướng phát triển công nghiệp của cả nước”, ông Quý chia sẻ.

Điều tra, khảo sát của nhà trường cho thấy, sinh viên của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên khi ra trường làm việc tại các sở, ngành, doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong tỉnh luôn được đánh giá cao. 60 - 70% có việc làm trong 3 tháng đầu tiên và tỉ lệ này lên tới hơn 90% sau một năm ra trường.

Động năng phát triển cho các địa phương

Hiệu ứng dòng chảy tín dụng chính sách càng thêm mạnh khi nhiều HSSV sau khi được vay vốn đi học và tốt nghiệp ra trường đã trở về nơi “chôn rau cắt rốn”, vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc góp phần kiến thiết địa phương.

Như ở Thượng Nông, xã nghèo nhất của huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, nhờ có nguồn vốn tín dụng HSSV mà ông Lường Xuân Việt, dân tộc Tày, thôn Bản Khoan, xã vùng III Thượng Nông đã gồng gánh được 8 đứa con học hành đến nơi đến chốn. Trong đó, 5 người tốt nghiệp đại học, 1 người tốt nghiệp cao đẳng, 2 người tốt nghiệp trung cấp nghề. Đặc biệt, con gái ông là Lường Thị Oanh, tốt nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) hiện đang công tác tại UBND xã Thượng Nông trên cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã, đang hằng ngày cùng NHCSXH hỗ trợ bà con xã Thượng Nông tiếp cận tín dụng, phát triển kinh tế, gieo thêm niềm tin và hy vọng đổi đời cho những người dân vùng quê nghèo khó.

Đối với gia đình ông Vi Văn Tiên, dân tộc Nùng, xóm Làng Tràng, xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên thì niềm tự hào không chỉ là gia đình ông đã ra khỏi danh sách hộ nghèo, hiện có 1 ha bưởi chuyển đổi từ trồng ngô cùng 1 mẫu ruộng và thu nhập làm công nhật những ngày nông nhàn đủ để gia đình ông có cuộc sống ổn định, mà hơn thế là 3 đứa con đều học đại học, tốt nghiệp ra trường, hiện tại đang tận lực đóng góp vào sự nghiệp trồng người và chăm sóc sức khỏe người dân Thái Nguyên.

Chị Vi Thị Phụng, con gái lớn của ông Tiên giờ đang là giáo viên Trường Tiểu học Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Ngày ấy nhà em thuần nông, công việc trong gia đình do em đỡ đần hết, nên khi nhận được giấy trúng tuyển Trường Cao đẳng Thái Nguyên, em đã rất lo lắng và có ý định nghỉ học để đỡ tạo gánh nặng kinh tế cho gia đình. Nhờ có sự động viên của gia đình, em có suy nghĩ tích cực hơn về tương lai cho bản thân, gia đình và xã hội. Em quyết tâm theo đuổi ước mơ trở thành cô giáo đưa con chữ, mang tương lai tri thức đến cho các em, cũng như mong muốn bản mình vươn lên thoát khỏi cuộc sống khó khăn và có thể giúp đỡ bố mẹ”. Ước mơ của chị Phụng giờ đã trở thành hiện thực. Bên mái ấm với người chồng cũng là đồng nghiệp và sự yêu thương của gia đình, chị Phụng càng có thêm động lực, niềm tin, ý chí mang những con chữ và tri thức thắp sáng tương lai cho các con em quê hương mình.

Đó chỉ là một vài nét sơ thảo về hiệu quả của việc triển khai chính sách tín dụng HSSV thời gian qua. Hiện nay, mức cho vay đối với HSSV được nâng lên, lãi suất cho vay của chương trình tín dụng HSSV được điều chỉnh theo hướng linh hoạt, phù hợp hơn với thực tế trong từng thời kỳ. Theo Quyết định số 05/2022/QĐ-TTg ngày 23/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg, chính sách tín dụng đối với HSSV được áp dụng để hỗ trợ cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của HSSV trong thời gian theo học tại trường bao gồm: Tiền học phí, chi phí mua sắm sách, vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại. Đối tượng vay vốn được mở rộng đến các HSSV có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các trường đại học (hoặc tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tại các cơ sở đào tạo nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm: HSSV mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động; HSSV là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các đối tượng: Hộ nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật, hộ cận nghèo theo chuẩn quy định của pháp luật, hộ có mức sống trung bình theo chuẩn quy định của pháp luật; HSSV mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với NHCSXH và các bộ, ngành liên quan thành lập Đoàn công tác liên ngành làm việc với một số ngân hàng và tập đoàn kinh tế để trao đổi, thảo luận các nội dung liên quan đến việc tham gia đóng góp nguồn vốn cho chương trình tín dụng HSSV. Các ngân hàng và tập đoàn kinh tế được tiếp xúc đều ủng hộ mục tiêu xã hội hóa nguồn vốn cho vay đối với chương trình tín dụng HSSV và coi đây là trách nhiệm mà các đơn vị sẵn sàng gánh vác cùng Chính phủ trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Một số đơn vị như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB)... đã tham gia đầu tư trái phiếu NHCSXH được Chính phủ bảo lãnh, qua đó gián tiếp tạo nguồn vốn cho NHCSXH để thực hiện cho vay chương trình tín dụng HSSV.

Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, NHCSXH trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện; giải đáp kịp thời những ý kiến thắc mắc trong quá trình thực hiện của các địa phương, cơ sở đào tạo và đối tượng thụ hưởng... Đồng thời, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai để kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Qua 17 năm thực hiện chương trình tín dụng HSSV, đã có trên 3,9 triệu lượt HSSV được vay hơn 80 nghìn tỉ đồng để trang trải chi phí học tập. Nguồn vốn tín dụng chính sách không chỉ tạo chỗ dựa, niềm tin cho HSSV nghèo mà còn góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc gia.

Chính sách cần bao quát và đáp ứng nhu cầu thực tiễn

Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW nhận định: “Kết quả đạt được cho thấy, đây là một trong các chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ và tạo cơ hội cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt trong thời gian theo học tại trường. Chính sách này đã giúp cho một bộ phận nhân dân có thu nhập thấp có được sự bình đẳng về đào tạo, hỗ trợ kinh phí để theo học các bậc học khác nhau, kể cả đào tạo nghề, giúp họ có thể có một việc làm ổn định, phát triển kinh tế cho bản thân và gia đình”. Với ý nghĩa to lớn đó, chính sách tín dụng đối với HSSV đã đi vào cuộc sống, được nhân dân đón nhận và nhiệt tình ủng hộ.



Nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách, chị Vi Thị Phụng đã thực hiện được ước mơ

trở thành giáo viên Trường Tiểu học Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đây cũng là thách thức mới cho các nhà làm chính sách cũng như NHCSXH trong việc tận dụng chương trình tín dụng HSSV đáp ứng yêu cầu mới và vận hội nước nhà.

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai tín dụng HSSV cũng cho thấy một số vấn đề cần được tháo gỡ. Đặc biệt, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế số, xã hội số, nhu cầu vay vốn của sinh viên không dừng lại ở việc chi trả chi phí học tập mà còn phục vụ nhu cầu mua sắm các trang thiết bị phục vụ việc học tập, nghiên cứu ở mức độ cao như máy tính cá nhân tốc độ cao...

Hiện nay, tại một số địa phương, việc triển khai rà soát, xác định thu nhập của hộ gia đình có mức sống trung bình theo Quyết định số 24/2021/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022 -

2025; Thông tư số 07/2021/TT-BLĐTBXH ngày 18/7/2021 của Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn phương pháp rà soát, phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo, xác định thu nhập của hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022 - 2025 và mẫu biểu báo cáo thực hiện chưa kịp thời, các hộ dân mặc dù đã được tuyên truyền nhưng chưa chủ động, chưa mạnh dạn đề nghị chính quyền điều tra, xác nhận là hộ có mức sống trung bình để được vay vốn. Do đó, nhiều hộ chưa được tiếp cận nguồn vốn tín dụng HSSV.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc này, NHCSXH đã phối hợp với chính quyền địa phương và nhà trường để triển khai thực hiện chương trình tín dụng HSSV, nắm bắt tình hình HSSV vay vốn, phối hợp quản lý việc sử dụng nguồn vốn vay; tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể HSSV về ý nghĩa, mục đích của chương trình, nhắc nhở HSSV được vay vốn khi tốt nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ cho NHCSXH và yêu cầu sinh viên ký cam kết trả nợ trước khi tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần đề xuất với Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhu cầu vay vốn của HSSV, xây dựng các gói vay phù hợp với nhu cầu của HSSV; bảo đảm mức vay vốn đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, đủ để trang trải các chi phí học tập, đặc biệt tại các thành phố lớn. Đồng thời, nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ sinh viên tìm kiếm việc làm, khởi nghiệp hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp. Trong đó, có thể xây dựng, hình thành các Quỹ cộng đồng để giúp sinh viên tốt nghiệp có thể vay vốn phát triển các dự án khởi nghiệp.

Minh Ngọc (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô