Tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương và vị thế quốc tế của đồng Euro

Quốc tế
Trên thế giới, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) đang trong quá trình nghiên cứu để chuẩn bị phát hành tiền kỹ thuật số NHTW (Central Bank Digital Currency hay CBDC). NHTW châu Âu (ECB) hiện cũng đang nghiên cứu về đồng tiền chung châu Âu (Euro) kỹ thuật số.
aa

Trên thế giới, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) đang trong quá trình nghiên cứu để chuẩn bị phát hành tiền kỹ thuật số NHTW (Central Bank Digital Currency hay CBDC). NHTW châu Âu (ECB) hiện cũng đang nghiên cứu về đồng tiền chung châu Âu (Euro) kỹ thuật số. Nó khác với tiền ghi sổ hiện tại (tiền gửi séc, tài khoản ngân hàng) ở chỗ Euro kỹ thuật số là nghĩa vụ của NHTW, giống như tiền giấy mà nó phát hành. Tiền ghi sổ, tiền được giữ trong tài khoản ngân hàng, là trách nhiệm của ngân hàng bán lẻ và do đó, xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng. CBDC đôi khi được mô tả như một phiên bản kỹ thuật số của tiền giấy. CBDC phức tạp hơn và nó sẽ không có các đặc điểm của một tờ tiền ở mọi khía cạnh. Trong thời gian tới, Euro kỹ thuật số sẽ có giá trị bằng một Euro, giống như nhiều loại tiền mặt và tiền ghi sổ.

CBDC đóng vai trò củng cố thêm sức mạnh của các quốc gia trên nhiều góc độ



Nhiều NHTW các nước đang trong quá trình nghiên cứu để chuẩn bị phát hành CBDC (Nguồn ảnh: Internet)

Cho đến nay, CBDC chủ yếu được thảo luận trong hệ thống tài chính hiện tại và tác động của nó đối với thanh toán cũng như vị thế của các ngân hàng và NHTW. Liên minh châu Âu (EU) là khu vực có mức độ độc lập về kinh tế. Một loại tiền tệ được sử dụng trên toàn cầu cũng là một trong các yếu tố củng cố thêm sức mạnh này. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi CBDC phải có cơ sở hạ tầng thanh toán quốc tế độc lập của riêng mình. Nếu không, ảnh hưởng chính trị của một quốc gia có thể sẽ bị suy giảm mạnh mẽ. Cho đến nay, Euro vẫn chưa có vị trí đó. Một Euro kỹ thuật số phát triển tốt không chỉ cần thiết để củng cố vị thế quốc tế của chính nó mà còn có thể đảm bảo rằng vị trí này không bị xói mòn bởi sự tăng giá của các đồng tiền khác trong đó có Nhân dân tệ của Trung Quốc.

Vị thế quốc tế của Euro đang yếu dần

Euro đã trở thành một đồng tiền chính ngay từ những ngày đầu tiên xuất hiện. Nhưng cho đến nay, USD vẫn là đồng tiền quan trọng nhất trên thế giới, Euro đứng vị trí thứ hai (Bảng 1). Tuy nhiên, không giống như Euro, USD là một loại tiền tệ toàn cầu thực sự. Thực tế là nhiều quốc gia trên toàn thế giới quản lý tỷ giá hối đoái của họ niêm yết so với USD. Ngoài ra, nhiều giao dịch quốc tế, chẳng hạn như giao dịch hàng hóa, được thanh toán chủ yếu bằng USD. Ngược lại, việc sử dụng Euro trên phạm vi quốc tế chủ yếu chỉ giới hạn ở các quốc gia trong khu vực châu Âu và ở châu Phi, nơi Franc CFA Tây Phi (đơn vị tiền tệ chung của 8 nước Tây Phi sử dụng tiếng Pháp trong Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi gồm: Besnin, Burkina Faso, Coote d’Ivoire, Guinea-Bissau, Mali, Niger, Sesnesegal và Togo) được gắn chặt với đồng Euro.

Bảng 1: Vị thế quốc tế của Euro (%)

Nguồn: ECB (2021)

Xem xét kỹ hơn cho thấy, vị thế quốc tế của Euro đang yếu dần. Nhìn vào Bảng 1 có thể thấy tỷ trọng của Euro như một loại tiền tệ dự trữ đến năm 2020 là khoảng 21% và không lớn hơn nhiều so với tỷ trọng tổng hợp của các đồng tiền cấu thành của nó vào năm 1999 (như Mark Đức, Guild Hà Lan, Franc Pháp và Lira Ý) - năm mà Euro được ra đời; bất chấp thực tế là khu vực Euro đã tăng từ 11 lên 19 quốc gia. Một lý do khiến sự phát triển của Euro đang yếu dần là Liên minh ngân hàng vẫn chưa được hoàn thiện theo đúng nghĩa của nó cũng như Liên minh thị trường vốn, do thiếu vắng một thị trường phát triển tốt cho các tài sản an toàn chung trên toàn Liên minh kinh tế và tiền tệ - EMU (chứng khoán do EU phát hành với sự bảo đảm của tất cả các quốc gia thành viên).

Trung Quốc đang nỗ lực gia tăng vị thế quốc tế của Nhân dân tệ

Đồ thị 1: Thị phần của Euro, USD, RMB trong dự trữ quốc tế (%)

Nguồn: ECB

Thực tế cho thấy, USD vẫn là đồng tiền số một và có khoảng cách rất lớn so với các đồng tiền còn lại, gần như không có sự thay thế nào tính đến thời điểm hiện nay, mặc dù vị thế quốc tế đang suy giảm dần so với chính nó (xem Đồ thị 2). Trong khi đó, Trung Quốc đang nỗ lực để phát triển Nhân dân tệ thành một đồng tiền có thể thay thế tốt cho USD. Mặc dù vẫn đang là một loại tiền tệ được sử dụng tương đối thấp (xem Đồ thị 1), song, Trung Quốc đang xây dựng một chiến lược có hệ thống để tăng cường sức mạnh đồng tiền của mình. Trong vòng chưa đầy 40 năm, đất nước này đã vươn lên từ một nước tụt hậu về hầu hết mọi khía cạnh, trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất và mạnh nhất về tài chính trên thế giới.


Đồ thị 2: Vị thế tài sản quốc tế của USD (1976 - 2020)

Nguồn: Phân tích kinh tế của Bureau tháng 12/2021

Trung Quốc cũng gia tăng áp lực lên Euro

So với các nước công nghiệp phát triển truyền thống, Trung Quốc đang vượt xa và dẫn đầu trong việc áp dụng tiền kỹ thuật số của NHTW. Sự phát triển chậm của Euro với tư cách là một loại tiền tệ quốc tế, như đã đề cập ở trên, chủ yếu không phải do sự vắng mặt của Euro kỹ thuật số và thậm chí sự xuất hiện của nó cũng chưa thể khắc phục hoặc cải thiện được tình trạng này của Euro. Vị thế quốc tế của Euro đang trở nên rủi ro bởi sự xuất hiện của Nhân dân tệ kỹ thuật số (DCEP). DCEP đã trong giai đoạn thử nghiệm được một thời gian, sẽ không chỉ được sử dụng ở chính Trung Quốc mà có vẻ như nó có thể sớm được sử dụng để giải quyết các giao dịch quốc tế. Điều này cho phép các nhà xuất khẩu châu Phi thanh toán hàng hóa của họ xuất khẩu sang Trung Quốc trực tiếp trong DCEP và cho phép họ mua các sản phẩm và dịch vụ ở Trung Quốc. Có vẻ như các giao dịch như vậy có thể sớm được thực hiện thông qua DCEP mà không có sự can thiệp của SWIFT hoặc thậm chí là NHTW của chính họ.

Việc kích thích sử dụng DCEP trên toàn thế giới, đặc biệt, cách thức mà ngay từ đầu Trung Quốc muốn thúc đẩy việc sử dụng DCEP ở châu Phi, có thể được coi là một hành động có mục tiêu nhằm làm suy giảm vị thế của Euro.

Điều gì quyết định vị thế quốc tế của một loại tiền tệ?

Lịch sử cho thấy việc một đồng tiền được sử dụng trên phạm vi quốc tế được quyết định/dựa trên 3 yếu tố chính: (i) Sức mạnh của nền kinh tế; (ii) Ảnh hưởng chính trị, dựa trên sức mạnh quân sự; và (iii) Phát triển tài chính.

Trong một hệ thống tài chính phát triển tốt, chẳng hạn như hệ thống của Hà Lan, CBDC có rất ít giá trị gia tăng cho các khoản thanh toán trong nước. Ở các quốc gia có mức độ hòa nhập tài chính thấp, có nghĩa là nhiều người không có khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, tín dụng hoặc tiết kiệm, thì lại có sự khác biệt. Đối với hầu hết các quốc gia, CBDC có thể giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thanh toán xuyên biên giới. Một CBDC được thiết kế tốt cũng có thể giúp bảo vệ quyền tự chủ tiền tệ của một quốc gia bằng cách ngăn chặn các “đồng tiền ổn định - stablecoin” tư nhân phát triển quá lớn đến mức NHTW mất quyền kiểm soát đối với nguồn cung tiền và sự ổn định tài chính.

Mô hình CBDC bán lẻ

CBDC bán lẻ có thể được coi là một loại tiền kỹ thuật số do NHTW phát hành và được phát triển để thanh toán trong nước. Nó ở trong mối quan hệ một đối một với tiền mặt hiện có và tiền ghi sổ. Người dân, chủ yếu là các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ, có thể giữ số dư tại NHTW. Các NHTW coi CBDC như một sự bổ sung cho tiền mặt và loại tiền không dùng tiền mặt hiện có. Hiện tại, vẫn chưa biết được hình thái và sức mạnh của Euro kỹ thuật số như thế nào so với tiền mặt Euro hiện tại.

CBDC bán lẻ chủ yếu hướng đến người dân trong nước, nhằm phục vụ mục tiêu bán lẻ của người dân, nhưng nó cũng sẽ mang tầm cỡ quốc tế. Ngay từ đầu, những người không phải là cư dân (người dân trong nước) cũng sẽ muốn sử dụng nó. Hãy nghĩ ví dụ về khách du lịch, những người khi đến thăm đất nước của chúng ta bây giờ cũng có thể thanh toán bằng tiền mặt Euro. Hơn nữa, có những người tạm trú ở trên đất nước ta cũng muốn có tài khoản bằng Euro kỹ thuật số. Quan trọng hơn là các NHTW dường như cũng đang nỗ lực liên kết các mạng lưới CBDC giữa các quốc gia với nhau. Lấy thêm ví dụ là, ai đó cũng có thể chuyển tiền nhanh chóng và với chi phí rất rẻ từ tài khoản CBDC bằng Euro của mình tại ECB sang tài khoản CBDC có quan hệ tại một ngân hàng nước ngoài: bằng đô la Mỹ hay bảng Anh. Các khoản thanh toán như vậy hiện đang được thực hiện qua hệ thống ngân hàng đại lý của các ngân hàng hoặc thông qua các công ty thanh toán chuyên biệt. Ngày nay, các giao dịch này tương đối chậm và rất đắt đỏ.

Nếu các NHTW có thể đưa một giải pháp thay thế đáng tin cậy, nhanh chóng và rẻ cho điều này, thì đó là một tin tốt cho người dân. Do đó, CBDC có thể là cơ hội để rút ngắn chuỗi ngân hàng đại lý, đơn giản hóa việc thanh toán bù trừ lẫn nhau và đưa các quy định phù hợp hơn. Tất nhiên, đối với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác thì điều này sẽ làm giảm nguồn thu của họ.

Mô hình CBDC bán buôn

CBDC với hình thái bán buôn có thể hiểu tương tự như khoản dự trữ của các ngân hàng tại NHTW. CBDC bán buôn nhằm phục vụ các giao dịch thanh, quyết toán các khoản thanh toán liên ngân hàng của các ngân hàng.

Vai trò của SWIFT và các giải pháp thay thế của một số quốc gia

Hầu hết các khoản thanh toán quốc tế giữa các bên chuyên nghiệp được giải quyết thông qua hệ thống SWIFT. Vị thế thị trường của SWIFT rất mạnh, gần như là độc quyền toàn cầu trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, có rất nhiều bên muốn thực hiện thanh toán quốc tế của họ bên ngoài SWIFT. Nếu các NHTW quản lý để liên kết các hệ thống CBDC quốc gia của họ, một kịch bản có thể hình dung được trong đó các khoản thanh toán quốc tế cũng có thể được giải quyết tương đối dễ dàng bên ngoài hệ thống SWIFT.

Với DCEP, Trung Quốc dường như đang mở ra khả năng cho các bên nước ngoài thanh toán trực tiếp bằng DCEP. DCEP là loại tiền điện tử hợp pháp duy nhất ở Trung Quốc do NHTW Trung Quốc phát hành và kiểm soát, được dùng cho 3 chức năng chính: Thanh toán, gửi tiền và rút tiền thông qua giao dịch điện tử. Sự khác biệt chính trong việc phát hành và phân phối DCEP so với tiền mặt truyền thống là DCEP sẽ được chuyển qua ví điện tử, thay vì tài khoản ngân hàng. Về thị phần thanh toán trực tuyến tại Trung Quốc thì Alipay và WeChat Pay hiện chiếm 94%. Tuy nhiên, Trung Quốc đang hướng người dân đến việc sử dụng đồng tiền DCEP này rộng rãi hơn và có thể chiếm khoảng 10% thị phần thanh toán trực tuyến tại Trung Quốc trong vài năm tới. Về lâu dài, Trung Quốc hướng đến thanh toán quốc tế bằng đồng DCEP, điều được cho là sẽ giúp củng cố vị thế toàn cầu của Nhân dân tệ trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Theo NHTW Trung Quốc, tính đến cuối năm 2021, hơn 260 triệu người có tài khoản DCEP và tổng giá trị giao dịch đạt gần 90 tỷ Nhân dân tệ (gần 14 tỷ USD).

Hiện tại, Nga đã phát triển một giải pháp thay thế cho hệ thống SWIFT, đó chính là hệ thống thanh toán SPFS (được xây dựng từ năm 2014). Mặc dù hiện vẫn đang ở giai đoạn tương đối sơ khai, có cùng dịch vụ như SWIFT nhưng mới chỉ có hơn 20 ngân hàng nước ngoài sử dụng. Một điều hạn chế nữa là hệ thống SPFS chỉ hoạt động vào giờ làm việc của các ngày làm việc trong tuần, chưa xử lý được những giao dịch có mức độ phức tạp. Hiện tại, một số quốc gia đã được tiếp cận để tham gia mạng lưới này, bao gồm Belarus, Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Chính vì những lý do đó, từ đầu năm 2016, Nga đã chủ trương kế hoạch tích hợp hệ thống của mình với CIPS (hệ thống thanh toán liên ngân hàng xuyên biên giới Nhân dân tệ) của Trung Quốc. Mặc dù hai hệ thống này chưa thể thay thế hoàn toàn cho hệ thống SWIFT nhưng trước mắt cũng là một trong những lựa chọn/giải pháp ngoài SWIFT.

Quay trở lại trường hợp của EU, nếu các nước khu vực EU có một giải pháp thay thế tốt cho SWIFT bằng cách sử dụng CBDC, thì điều đó sẽ làm tăng đáng kể quyền tự chủ về kinh tế cũng như vị thế của Euro.

ThS. Mai Phương Linh
Vụ CSTT
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.
Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Phát triển kinh tế xanh của Đan Mạch và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Đan Mạch là một trong những quốc gia đi đầu trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ các hoạt động dựa trên năng lượng hóa thạch sang các công nghệ năng lượng tái tạo, giao thông bền vững và các quy trình sản xuất xanh. Học hỏi từ kinh nghiệm của Đan Mạch sẽ là một nền tảng quý giá, giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn về một nền kinh tế xanh, công bằng và phát triển bền vững.
Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc và chiến lược ứng phó của ngành Ngân hàng

Viễn cảnh về làn sóng thứ hai của xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc được dự báo trong năm 2025, không chỉ là một sự kiện kinh tế đơn lẻ mà là một yếu tố cấu trúc định hình lại bối cảnh hoạt động của ngân hàng toàn cầu. Bài viết xác định và phân tích sâu các cơ chế truyền dẫn quan trọng, bao gồm biến động thị trường tài chính, gián đoạn chuỗi cung ứng, sự chuyển hướng dòng chảy thương mại, biến động tiền tệ và rủi ro ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thành công của ngành Ngân hàng trong việc duy trì sự ổn định và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh xung đột thương mại leo thang phụ thuộc vào khả năng kết hợp hài hòa giữa các biện pháp ứng phó ngắn hạn và điều chỉnh chiến lược dài hạn.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc