Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong quá trình hơn bốn ngàn năm lịch sử của đất nước, ngành nông nghiệp luôn có một vai trò và vị thế vô cùng quan trọng. Xuất phát điểm từ nền văn minh lúa nước, phần lớn chiều dài lịch sử phát triển của đất nước ta gắn liền với hình ảnh một quốc gia nông nghiệp với đa số dân cư là những người nông dân.
aa

1. Tính cấp thiết, thực trạng dòng vốn tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay

Trong quá trình hơn bốn ngàn năm lịch sử của đất nước, ngành nông nghiệp luôn có một vai trò và vị thế vô cùng quan trọng. Xuất phát điểm từ nền văn minh lúa nước, phần lớn chiều dài lịch sử phát triển của đất nước ta gắn liền với hình ảnh một quốc gia nông nghiệp với đa số dân cư là những người nông dân. Dưới dòng chảy tất yếu của thời đại, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã trở thành nhiệm vụ tuyệt đối quan trọng để hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành nông nghiệp không còn là ngành kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh tế mờ nhạt đi mà thậm chí còn trở nên rõ ràng hơn. Đảng và Nhà nước ta luôn dành những sự quan tâm đặc biệt tới việc phát triển ngành nông nghiệp mà cụ thể hóa sâu sắc nhất chính là Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại đây, Đảng ta đã khẳng định vị trí quan trọng của ngành nông nghiệp “Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế”. Vai trò trụ đỡ của nền kinh tế được thể hiện thông qua việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế và việc làm cho khoảng hơn 30% dân số, đảm bảo động lực tăng trưởng trong những cuộc khủng hoảng mà đại dịch Covid-19 vừa qua là một minh chứng rõ ràng nhất. Còn với đặc điểm về địa lý, khí hậu thuận lợi, phù hợp, sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam hoàn toàn có đủ sức cạnh tranh trên toàn cầu và sẽ trở thành một mũi nhọn xuất khẩu trong cơ cấu phát triển kinh tế.

Để phát triển ngành nông nghiệp một cách hiệu quả, bền vững thì cần phải có sự giúp sức của nhiều nguồn vốn: Vốn từ ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, tín dụng ngân hàng, vay các tổ chức quốc tế, các nguồn vốn xã hội hóa khác… Hệ thống ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, có trách nhiệm luân chuyển, cung ứng dòng vốn tới các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của nền kinh tế trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết số 19/NQ-TW về “tam nông” cũng đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể cho việc cung ứng nguồn vốn tín dụng để phát triển nông nghiệp, nông thôn: “Tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông thôn phát triển sản xuất kinh doanh; Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng”.

Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp gặp rất nhiều thách thức do những đặc thù của ngành nông nghiệp như: (i) Hoạt động nông nghiệp phụ thuộc rất lớn và các điều kiện tự nhiên và luôn đi kèm với những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên khắc nghiệt và để lại hậu quả lớn, khi rủi ro xảy ra thì nguy cơ khách hàng mất trắng và không thể khắc phục được; (ii) Khách hàng là nông dân có trình độ nhận thức về lĩnh vực tài chính, ngân hàng là tương đối hạn chế, vốn mỏng, không đáp ứng được điều kiện về tài sản bảo đảm khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng theo cách thông thường; (iii) Phương thức sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, thủ công, chủ yếu là sơ chế, trình độ chế biến sâu còn thấp, dẫn đến giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế còn chưa cao, từ đó khiến cho năng lực tài chính, phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ có thể chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng (TCTD); (iv) Nhiều địa bàn nông nghiệp thuộc các vùng sâu, vùng xa, hải đảo nằm ngoài phạm vi phục vụ của các TCTD; (v) Tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp về cơ bản vẫn dưới dạng tín dụng truyền thống, thiếu những sản phẩm tài chính, bảo hiểm đa dạng đi kèm.

Quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã triển khai nhiều chính sách, biện pháp về tiền tệ, tín dụng để khơi thông dòng vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn, hiện đại, bền vững, tạo sinh kế cho người nông dân và cư dân nông thôn, xây dựng nông thôn văn minh, phồn thịnh. Những chính sách này bao gồm việc hoàn thiện cơ chế về điều hành tín dụng chung và tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho khách hàng để đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất cho các TCTD cung ứng vốn vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xây dựng, tổ chức triển khai các chương trình tín dụng đối với ngành riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

2. Hoàn thiện cơ chế tín dụng chung

NHNN thường xuyên rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động ngân hàng, phù hợp với Luật Các TCTD để tạo điều kiện mở rộng tín dụng và khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Về hoạt động cấp tín dụng, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng và Thông tư số 12/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, trong đó, bổ sung nhiều quy định tạo điều kiện thuận lợi để tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng như bổ sung quy định cho vay bằng phương tiện điện tử, quy định về cho vay đối với các khoản vay có giá trị nhỏ, trong đó giảm thiểu các thủ tục mà khách hàng cần đáp ứng... Về hoạt động thanh toán và chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, NHNN đã nghiên cứu, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, quy định tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ thanh toán phù hợp với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Đồng thời, NHNN đã triển khai nhiều chính sách hướng đến mục tiêu hỗ trợ cho các hoạt động tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. NHNN đã xây dựng Kế hoạch đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và sẽ rà soát để đề xuất, sửa đổi các chính sách phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục duy trì những quy định về cơ chế hỗ trợ các TCTD cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn nhằm khuyến khích các TCTD hướng dòng vốn vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, trong quy định về cho vay của TCTD với khách hàng tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ đối với một số nhu cầu vốn, trong đó, có nhu cầu vốn đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ.

Bên cạnh đó, NHNN điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo cung ứng đủ nguồn vốn tín dụng phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. NHNN điều hành thanh khoản trên thị trường tiền tệ về cơ bản có dư thừa, giữ ổn định các loại lãi suất điều hành để tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận vốn với chi phí hợp lý để có thêm dư địa giảm lãi suất cho vay, điều hành tỉ giá linh hoạt, đảm bảo các thị trường tiền tệ, ngoại hối vận hành đồng bộ, hiệu quả. Ngay từ đầu năm 2024, NHNN đã đổi mới công tác điều hành tăng trưởng tín dụng thông qua việc giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD để các TCTD chủ động thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Kết quả là tín dụng chung đối với nền kinh tế được cải thiện, đến hết tháng 9/2024, dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng 9% so với cuối năm 2023, cao hơn mức khoảng 6,5% cùng kỳ; tín dụng đối với lĩnh vực nông - lâm -thủy sản tiếp tục tăng trưởng 3,28% so với cuối năm 2023, chiếm gần 7% tỉ trọng dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế; tín dụng đối với nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn được vay vốn với lãi suất ưu tiên tăng 4,64% và chiếm tỉ trọng 23,67%, cao nhất trong số 5 lĩnh vực ưu tiên theo quy định của Chính phủ.

3. Thực hiện các chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

3.1. Thực hiện các nhiệm vụ của ngành Ngân hàng tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 116/2018/NĐ-CP)

Nghị định số 55/2015/NĐ-CP được ban hành và kịp thời sửa đổi, hoàn thiện bởi Nghị định số 116/2018/NĐ-CP, phù hợp hơn với yêu cầu đặt ra về tái cơ cấu/cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong tình hình mới. Trải qua 9 năm thực hiện, những quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP không chỉ khuyến khích các TCTD mạnh dạn đầu tư vốn phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mà còn góp phần đơn giản thủ tục, nâng hạn mức cho vay không có tài sản đảm bảo, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Về phía NHNN, đã chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức triển khai trong hệ thống ngân hàng về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo chính sách được triển khai kịp thời, quyết liệt, thường xuyên, liên tục, đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, NHNN tích cực rà soát hệ thống khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các quy định về hoạt động cấp tín dụng, tổ chức và hoạt động của các loại hình TCTD (nhất là các TCTD quy mô nhỏ), thanh toán, sản phẩm dịch vụ ngân hàng… để hoàn thiện theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường, yêu cầu phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng cung ứng tín dụng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng, cũng như tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn, sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng thuộc khu vực này. Về phía các TCTD, đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp để thực hiện Nghị định số 55/2015/NĐ-CP hiệu quả như không ngừng nâng cao năng lực, đổi mới, cải tiến các sản phẩm huy động để tăng khả năng huy động vốn từ nền kinh tế, đặc biệt tăng cường hợp tác, tích cực tìm kiếm các nguồn vốn dài hạn, lãi suất thấp từ các tổ chức tài chính quốc tế để bổ sung nguồn lực cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; tích cực triển khai, tuyên truyền, phổ biến các chính sách quy định tại Nghị định bằng nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn trong lĩnh vực này tiếp cận nguồn vốn vay một cách nhanh chóng, đáp ứng được cơ bản nhu cầu vay vốn của người dân ở khu vực nông thôn; đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng mang lại nhiều sự lựa chọn cho khách hàng, phù hợp với nhu cầu vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp; chủ động triển khai nhiều chương trình, gói tín dụng ưu đãi, sản phẩm thiết kế dành riêng cho khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Kết quả là đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thời gian qua đã góp phần tích cực hỗ trợ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp qua các năm, đặc biệt, tín dụng đối với nhóm ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có tỉ trọng tăng dần qua các năm, từ 31% năm 2016 lên gần 39% năm 2023, với tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dư nợ nông nghiệp, nông thôn bình quân, góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao vị thế trên thị trường thế giới; xuất khẩu nông - lâm - thủy sản Việt Nam nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nông nghiệp là lĩnh vực hiện nay Việt Nam xuất siêu và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu quốc gia, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đầu tư tín dụng cơ bản phù hợp với quy hoạch, thế mạnh và định hướng phát triển các sản phẩm nông nghiệp của vùng, quốc gia như: Vùng Tây Nguyên có thế mạnh về cà phê (chiếm tỉ trọng 73% dư nợ cà phê toàn quốc); vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có thế mạnh về thủy sản (tổng dư nợ hai vùng này chiếm khoảng gần 80% tổng dư nợ cho vay nuôi trồng, đánh bắt thủy sản toàn quốc); lúa gạo tập trung chính tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm khoảng 50% dư nợ cho vay sản xuất lúa gạo toàn quốc) và Đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 20% dư nợ cho vay sản xuất lúa gạo toàn quốc); rau quả chủ yếu tập trung tại vùng Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (tổng dư nợ 2 vùng này chiếm khoảng khoảng 55% tổng dư nợ toàn quốc). Nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng trên 60%/tổng nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2 (2016 - 2020), cao hơn so với tỉ lệ đặt ra 45% tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đã góp phần hoàn thành Chương trình sớm 18 tháng so với mục tiêu đề ra và vượt mục tiêu 10 năm (giai đoạn 2010 - 2020); đến cuối năm 2023, vốn tín dụng thực hiện Chương trình đạt 1,9 triệu tỉ đồng, vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025. Nhờ vốn vay ngân hàng, nhiều hộ dân ở khu vực nông thôn đã thoát khỏi đói nghèo, phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng; tạo điều kiện khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, trình độ phát triển sản xuất của khu vực nông thôn được cải thiện đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

Tháng 9 vừa qua, cơn bão số 3 Yagi đã gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn tại 26 địa phương thuộc khu vực phía Bắc. Trong đó có nhiều khách hàng vay vốn từ các TCTD để sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp như nuôi lồng bè thủy sản, trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia cầm... bị thiệt hại nặng nề, thậm chí mất trắng. Theo đó, NHNN đã rất kịp thời có những chỉ đạo đối với các TCTD báo cáo tình hình thực tế và triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng từ nguồn lực của chính ngân hàng để kịp thời đồng hành cùng khách hàng giảm thiểu, khắc phục những khó khăn. NHNN cũng đang khẩn trương rà soát ban hành các quy định để tạo cơ sở cho các TCTD tiến hành cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại bởi bão số 3, tạo điều kiện cho khách hàng nói chung và khách hàng vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng được cơ cấu lại dòng tiền và tìm kiếm cơ hội để khôi phục sản xuất, kinh doanh.

3.2. Thực hiện Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản. Theo đó, Chương trình được tổ chức triển khai thực hiện nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh lĩnh vực lâm sản, thủy sản về vốn, lãi suất để tăng trưởng và phát triển. Thông qua gói tín dụng ưu đãi lãi suất (thấp hơn mức cho vay bình quân cùng kỳ hạn từ 1 - 2%/năm), doanh nghiệp, hộ sản xuất thuộc lĩnh vực lâm sản, thủy sản đã được tiếp cận nguồn vốn lãi suất thấp, chi phí vay vốn thấp, từ đó mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng và phát triển. Ngay khi được thông báo triển khai, có 13 ngân hàng thương mại (NHTM) đăng ký tham gia Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản, với quy mô gói tín dụng 30.000 tỉ đồng, trong đó có 9 NHTM cổ phần tham gia. Đến cuối tháng 6/2024, các NHTM đã giải ngân cho vay với doanh số lũy kế khoảng 35.400 tỉ đồng, với gần 9.900 lượt khách hàng vay vốn, hoàn thành tổng doanh số cam kết cho vay của Chương trình cho thấy nỗ lực, sự nghiêm túc và tinh thần trách nhiệm rất cao của các TCTD đối với việc cung ứng vốn tín dụng tới lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngày 22/8/2024, NHNN đã có Văn bản số 7023/NHNN-TD đề nghị các NHTM tiếp tục nâng quy mô/đăng ký tham gia Chương trình trên cơ sở đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng thuộc lĩnh vực lâm sản, thủy sản và khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng đối với lĩnh vực này và dự kiến quy mô triển khai Chương trình có thể lên tới khoảng 50.000 - 60.000 tỉ đồng.

3.3. Đẩy mạnh triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng tại các Chương trình mục tiêu quốc gia

NHNN đã tích cực hoàn thiện văn bản hướng dẫn triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia đúng tiến độ; chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp thuộc chức năng quản lý nhằm bổ sung nguồn lực từ vốn tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; thực hiện đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực hiện các Chương trình trên địa bàn các tỉnh được phân công theo Chương trình công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia; kịp thời phối hợp với các bộ, ngành liên quan có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Chương trình. Kết quả:

- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Đến ngày 30/6/2024, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn các xã toàn quốc đạt 2.057.982 tỉ đồng, tăng 3,73% so với tháng 12/2023 với hơn 10 triệu khách hàng còn dư nợ (phần lớn khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp).

- Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững: Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) đã và đang tích cực triển khai 26 chương trình tín dụng ưu đãi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh và tiêu dùng cho các đối tượng chủ yếu tại địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đến ngày 31/8/2024, tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội tại NHCSXH đạt 350.648 tỉ đồng, tăng 5,69% so với tháng 12/2023 với hơn 6,8 triệu khách hàng còn dư nợ. Dư nợ tập trung ở một số chương trình: cho vay hộ nghèo đạt 33.314 tỉ đồng; cho vay hộ cận nghèo đạt 41.407 tỉ đồng; cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 44.302 tỉ đồng; cho vay học sinh, sinh viên đạt 14.465 tỉ đồng; cho vay nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn đạt 53.245 tỉ đồng; cho vay giải quyết việc làm đạt 71.946 tỉ đồng.

- Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Đến ngày 31/8/2024, dư nợ chương trình đạt 2.319 tỉ đồng, tăng 0,09% so với tháng 12/2023 với 47.004 khách hàng còn dư nợ.

4. Tích cực thực hiện đồng bộ các chính sách để hỗ trợ khơi thông dòng vốn tín dụng và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn

Một là, NHNN đã hoàn thiện các quy định, văn bản hướng dẫn của ngành về mạng lưới hoạt động của NHTM, của TCTD phi ngân hàng; thường xuyên theo dõi, rà soát và thực hiện cấp phép thành lập mạng lưới các NHTM, TCTD phi ngân hàng theo đúng quy định. Về phía TCTD, trên cơ sở rà soát, đánh giá quy mô, hiệu quả hoạt động các điểm mạng lưới, các TCTD đã tập trung triển khai các giải pháp để kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như gia tăng sự hiện diện tại các địa bàn khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa với mục tiêu tạo điều kiện cho người dân nông thôn tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Đồng thời, thực hiện sắp xếp, thay đổi địa điểm mạng lưới từ địa bàn thành thị về địa bàn nông thôn trong cùng một tỉnh hoặc từ những tỉnh, thành phố có mật độ mạng lưới đông sang những tỉnh, thành phố có mạng lưới mỏng hơn nhằm tận dụng tối đa hệ thống mạng lưới sẵn có.

Hai là, quan tâm, chú trọng mở rộng hoạt động tài chính quy mô nhỏ nhằm cải thiện khả năng tiếp cận tài chính cho nhóm khách hàng yếu thế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn, NHNN đã trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản quy phạm pháp luật¹ liên quan đến Ngân hàng Hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô nhằm thúc đẩy các loại hình tổ chức này hoạt động an toàn, hiệu quả; tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức này mở rộng mạng lưới, tập trung phục vụ đối tượng khách hàng là người nghèo, người thu nhập thấp ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Ba là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, phát triển mô hình ngân hàng số góp phần tăng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn:

- Các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) đã ứng dụng các công nghệ số tiên tiến để tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng góp phần tăng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn²; đồng thời đánh giá, phân loại khách hàng, quyết định giải ngân và tích hợp với nhiều hệ sinh thái đối tác khác nhau trong nhiều lĩnh vực.

- Các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT đã đầu tư, xây dựng và phát triển được hệ thống công nghệ thông tin, nền tảng vận hành, xử lý nghiệp vụ vững mạnh, tin cậy dựa trên công nghệ, dữ liệu và có thể tiếp cận khách hàng qua các kênh số, thiết kế, cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng an toàn, tiện ích theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm, hướng tới cung cấp trải nghiệm giao dịch vượt trội cho khách hàng³. Bên cạnh đó, các TCTD, tổ chức TGTT tại Việt Nam đã ứng dụng nhiều công nghệ số tiên tiến như điện toán đám mây (Cloud Computing), phân tích dữ liệu lớn (Big Data), tự động hóa quy trình bằng rô-bốt (RPA), trí tuệ nhân tạo/máy học (AI/ML)… để tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng.

Bốn là, tích cực hợp tác, kết nối với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tăng cường thông tin, tiếp nhận các hình thức hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực quản trị tài chính, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các tổ chức này phục vụ phát triển khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tích cực làm việc với các đối tác như WB, ADB, Công ty Tài chính quốc tế (IFC), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), AIIB... nhằm huy động các nguồn lực hỗ trợ Chính phủ thực hiện các mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế tư nhân, phát triển khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tài chính toàn diện.

5. Định hướng của NHNN về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xây dựng phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng tới các cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, đồng thuận, quyết tâm của ngành Ngân hàng trong việc thực thắng lợi nhiệm vụ chính trị đặt ra tại các Nghị quyết của Đảng, của Chính phủ.

Thứ hai, tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô tạo nền tảng cơ sở, điều kiện thuận lợi thực hiện thành công các Nghị quyết, trong đó, tập trung vào các giải pháp liên quan đến tín dụng, hoạt động ngân hàng nhằm khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đặt ra tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 27/02/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể:

Một là, chỉ đạo các TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; thúc đẩy đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo điều kiện cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ gia đình ở nông thôn tiếp cận vốn tín dụng phát triển sản xuất, kinh doanh theo hướng bền vững, nâng cao giá trị gia tăng.

Hai là, tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng đối với ngành nông nghiệp, nông thôn theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, qua đó kịp thời cung ứng tín dụng ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn phù hợp với quy định.

Ba là, khuyến khích các TCTD phát triển mạng lưới về vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn; chú trọng phát triển hệ thống tổ chức tài chính vi mô, củng cố hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, bảo đảm an toàn, hiệu quả.

Bốn là, phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế và đa dạng loại hình dịch vụ; phát triển TTKDTM trên nền tảng công nghệ hiện đại gắn liền với đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán trong nền kinh tế; chuyển đổi số toàn diện trong hoạt động ngân hàng, phát triển mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ góp phần tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính, ngân hàng của khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Năm là, tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của NHCSXH, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trong cho vay phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn, cung cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh, hộ sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo và các đối tượng chính sách ở nông thôn; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách tín dụng cho giải quyết việc làm, chuyển đổi ngành nghề ở nông thôn, sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị, các chương trình tín dụng chính sách, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia tại các địa phương.

¹NHNN đã trình Chính phủ ban hành 01 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Quyết định; Thống đốc NHNN đã ban hành 15 Thông tư, 01 Quyết định.

²Năm 2022, hoạt động chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. NHNN được xếp thứ 4 về an toàn thông tin mạng, thứ 3 về kiến tạo thể chế và thứ 4 về hoạt động chuyển đổi số theo Chỉ số đánh giá chuyển đổi số (DTI) của Bộ Thông tin và Truyền thông; 95% TCTD đã và đang xây dựng, triển khai Chiến lược chuyển đổi số tại đơn vị mình.

³Nhiều TCTD chuyển đổi số ở tốp đầu hiện đã đạt 90% giao dịch khách hàng thực hiện trên kênh số góp phần tăng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; nhiều TCTD có hiệu quả hoạt động tốt nhờ tích cực chuyển đổi số, giảm tỉ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) xuống ngưỡng 30%, tiệm cận tỉ lệ mà nhiều ngân hàng khu vực, quốc tế đang chuyển đổi số nỗ lực hướng tới.


Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
3. Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
4. Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 27/02/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
5. Một số tài liệu tham khảo khác.


ThS. Đào Minh Thắng (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng