Thay đổi thói quen hướng tới sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt trước tác động của đại dịch Covid-19

Công nghệ & ngân hàng số
Những năm gần đây, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ, hành lang pháp lý dần được hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của các phương thức thanh toán ...
aa

Những năm gần đây, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ, hành lang pháp lý dần được hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của các phương thức thanh toán hiện đại.

Các dịch vụ, công cụ hỗ trợ TTKDTM ngày càng đa dạng và bảo mật hơn. Tuy nhiên, thanh toán dùng tiền mặt vẫn là thói quen cố hữu của không ít người tiêu dùng. Do đó, để khuyến khích người tiêu dùng thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán, chuyển sang các phương thức thanh toán hiện đại thì cần những đòn bẩy chính sách và sự tham gia mạnh mẽ của truyền thông, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp và khó lường.

TTKDTM và những tiện ích

TTKDTM là hình thức thanh toán thông qua các phương tiện khác không phải tiền mặt như: tài sản, chứng chỉ có giá trị tương đương. Nghĩa là người tiêu dùng có thể sử dụng các giấy tờ có giá, tài sản hữu hình (không phải vàng, bạc) hoặc sử dụng công cụ để thanh toán, nhưng chủ yếu thông qua các tổ chức tín dụng và các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (cổng thanh toán điện tử, ví điện tử) thay vì người tiêu dùng và người bán trực tiếp trao đổi với nhau hiện nay.

Đối với nền kinh tế, bản chất của TTKDTM chính là làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông, từ đó giảm đáng kể chi phí cho việc in ấn, bảo quản, vận chuyển và kiểm đếm tiền. Mặt khác, nhờ có TTKDTM mà khâu thanh toán diễn ra nhanh hơn, góp phần làm tăng tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Hơn nữa, các nghiệp vụ TTKDTM đều được lưu lại thông tin trên hệ thống ngân hàng, thông qua đó có thể kiểm soát được các hoạt động của nhiều ngành kinh tế, nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra, TTKDTM còn làm cho các khoản thu nhập của doanh nghiệp và các cá nhân được minh bạch và công khai hơn, góp phần chống thất thu thuế có hiệu quả.

Đối với ngành Ngân hàng, TTKDTM giúp cho các ngân hàng thương mại huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ tài khoản thanh toán sử dụng để giao dịch của khách hàng tại ngân hàng. Đây là nguồn huy động vốn quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại, nhờ đó, các ngân hàng có điều kiện mở rộng cung ứng các dịch vụ khách hàng, tạo điều kiện để tăng lợi nhuận, điều mà bất kỳ ngân hàng nào cũng mong muốn trong quá trình kinh doanh.

Đối với dân cư, quá trình TTKDTM diễn ra nhanh hơn, giảm được nhiều rủi ro cho khách hàng hơn so với thanh toán bằng tiền mặt. Các cá nhân hay tổ chức không cần phải đem theo một lượng tiền mặt lớn để thanh toán cho các giao dịch phát sinh và không phải bận tâm đến những rủi ro như: tiền giả, trộm cắp, hỏa hoạn,… Ngoài ra, khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và duy trì số dư tài khoản thì họ còn được hưởng tiền lãi và những ưu đãi khác từ ngân hàng.

Thúc đẩy phát triển TTKDTM ở Việt Nam

Thúc đẩy TTKDTM là một trong những chủ trương quan trọng nhằm thúc đẩy Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ. Mục tiêu đề ra trong Chiến lược là phấn đấu tới năm 2025, ít nhất 80% người trưởng thành có tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác; số lượng giao dịch TTKDTM đạt tốc độ tăng 20 - 25%/năm… Tại cuộc họp Thường niên Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, trong trung hạn, nằm trong những nội dung trọng tâm được cơ quan điều hành tập trung là đẩy mạnh TTKDTM, phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống các tổ chức tín dụng trong nước... Đây cũng là mục tiêu đặt ra tại Kế hoạch số 09/KH-NHNN của NHNN ban hành ngày 12/10/2020 góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.

Để TTKDTM có thể góp phần hiện thực hóa chủ trương thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia, lãnh đạo Vụ Thanh toán - NHNN cho biết, cần phải đồng thời triển khai tích cực cả 4 yếu tố: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán; xây dựng hạ tầng thanh toán; cung ứng sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, tiện ích, thân thiện; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục tài chính toàn diện quốc gia.

Hiện nay, số lượng công ty Fintech ở Việt Nam tăng khá nhanh. Nếu như cuối năm 2016 chỉ dừng lại ở con số 40 công ty, thì đến nay, cả nước đã có gần 150 công ty Fintech, tương đương tăng gần 4 lần. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đang có nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp Fintech phát triển, đặc biệt với quy mô dân số hơn 96 triệu dân, số lượng tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng của người dân hiện nay là 45,8 triệu người, chiếm khoảng 63% dân số có tài khoản ngân hàng và tiếp cận với ít nhất một dịch vụ tài chính.

Những kết quả đạt được

Tại buổi công bố chuỗi sự kiện hưởng ứng Ngày không tiền mặt 2020 (16/6/2019 - 16/6/2020) do NHNN cùng Báo Tuổi Trẻ tổ chức diễn ra chiều ngày 26/5/2020, theo báo cáo của NHNN, giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục đánh dấu bước tiến vượt bậc trong sự phát triển của hoạt động thanh toán cả về chất và lượng với nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích và hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin.

Số liệu đến cuối tháng 8/2020, số lượng giao dịch thanh toán qua kênh điện thoại di động tăng đến 980,9%, đạt 682,3 triệu món với tổng giá trị đạt 7,2 triệu tỷ đồng, tăng 793,6%. Thanh toán qua kênh Internet tăng 262,5% đạt 282,4 triệu món giao dịch với tổng giá trị giao dịch 17,4 triệu tỷ đồng, tăng 353,1%. Có 75 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 45 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Số tài khoản cá nhân đạt 95,6 triệu tài khoản. Tổng lượng thẻ lưu hành đạt 109 triệu thẻ. Mạng lưới ATM, POS phủ sóng đến tất cả địa bàn các tỉnh trên cả nước với 19.541 máy ATM và 274.539 máy thanh toán POS.

Một số tổ chức, tạp chí trên thế giới đánh giá cao việc phát triển hoạt động TTKDTM tại Việt Nam. Theo Tạp chí Nikkei Asia số ra ngày 18/4/2019, đánh giá Việt Nam đã vượt qua Singapore và Malaysia trong cuộc đua “Không tiền mặt”. Đây là minh chứng cho chủ trương của Chính phủ, những giải pháp quản lý nhà nước và chỉ đạo của NHNN đang đi đúng hướng trong việc đẩy mạnh TTKDTM.

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, khủng hoảng từ đại dịch đồng thời cũng tạo nên đòn bẩy giúp tỷ lệ TTKDTM gia tăng, từ đó tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán cũng giảm theo trong những tháng bùng phát dịch bệnh được thể hiện rõ qua sơ đồ thống kê của NHNN. (Biểu đồ 1)


Theo khảo sát của World Payments Report 2020 và Capgemini Financial Services Analysis 2020, đại dịch Covid-19 đã thay đổi đáng kể về việc thanh toán trong nền kinh tế hàng ngày. Sự thay đổi trong thói quen thanh toán được thể hiện rõ qua sự khác biệt về mức tăng trưởng giữa phương thức thanh toán kỹ thuật số (Internet banking và Mobile banking) tăng so với thanh toán vật lý (tiền mặt, séc, POS). (Biểu đồ 2)


Môi trường Covid-19 đã tạo nên hành vi tiêu dùng mới. Người dùng đã dần chuyển dịch khỏi các phương thức thanh toán truyền thống sang sử dụng ví điện tử, thanh toán không tiếp xúc và quét mã QR. Qua khảo sát, có 41% người được khảo sát trực tiếp cho biết, họ có thói quen sử dụng tiền mặt ở mức cao, đã thử nghiệm sử dụng thẻ không tiếp xúc trong thời gian đại dịch; 35% người tham gia khảo sát có mức sử dụng thẻ thanh toán cao đã chuyển sang sử dụng ví điện tử; 27% đã thử nghiệm với thanh toán QR Code. (Biểu đồ 3)


Một số hạn chế, thách thức

Thứ nhất, thói quen sử dụng tiền mặt của người dân trong giao dịch thanh toán, tiêu dùng - đây là rào cản lớn trong phát triển TTKDTM ở Việt Nam.

Thứ hai, tâm lý e ngại tiếp cận công nghệ mới trong thanh toán điện tử, ngân hàng, sợ rủi ro, không an toàn trong sử dụng dịch vụ TTKDTM của người dân.

Thứ ba, cơ sở hạ tầng phục vụ TTKDTM còn nhiều hạn chế, nhất là đối với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Đề xuất, kiến nghị

Kể từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra, nhiều quốc gia có những chính sách nhằm khuyến khích TTKDTM và củng cố niềm tin của dân chúng khi tham gia giao dịch trực tuyến. Kết quả là hành vi thanh toán của người tiêu dùng trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi. Minh chứng cho thấy, trong khi đời sống xã hội bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 thì TTKDTM trở thành “cứu cánh” cho các hoạt động giao dịch thanh toán, tiêu dùng trong bối cảnh cần hạn chế tiếp xúc trực tiếp. Nhiều nước trên thế giới đã kịp thời đưa ra những chính sách để thúc đẩy TTKDTM. Tại một số quốc gia như Pháp, Hà Lan, Thụy Sĩ cho phép khách hàng không cần nhập mã PIN khi thanh toán bằng thẻ đối với các giao dịch có giá trị nhỏ. Áo, Đức, Hungary, Ai-len, Hoa Kỳ đã thiết lập hạn mức giao dịch cao hơn cho thanh toán phi tiếp xúc. Ở Việt Nam, sử dụng ví điện tử hoặc thanh toán trên di động là giải pháp được ưu tiên khuyến khích, bởi đây là cách làm hữu hiệu góp phần hạn chế lan truyền virus.

Để góp phần thay đổi thói quen sử dụng thanh toán tiền mặt của người dân, hướng tới sử dụng dịch vụ TTKDTM, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:

Một là, Chính phủ, các bộ, ngành, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến kiến thức về TTKDTM cho người dân, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi trong thanh toán tiêu dùng, nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, khuyến khích sử dụng TTKDTM. Chính phủ và các doanh nghiệp cần nhanh chóng đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hệ thống thanh toán quốc gia; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào các giải pháp thanh toán… Cần ưu tiên mở rộng cơ sở hạ tầng tới vùng sâu, vùng xa để tiếp cận, cải thiện những khó khăn còn tồn đọng trong TTKDTM của những đối tượng chưa có tài khoản ngân hàng hoặc chưa đạt điều kiện sử dụng dịch vụ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của xã hội.

Hai là, NHNN cần đề ra một số giải pháp cụ thể và tiếp tục nghiên cứu ban hành mới, sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành nhằm tạo hành lang thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động TTKDTM; thúc đẩy sự phát triển của hạ tầng hệ thống thanh toán bù trừ thế hệ mới. Các NHTM, doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch chuyển đổi thẻ từ sang thẻ chip, triển khai tiêu chuẩn cơ sở QR Code rộng khắp; phát triển TTKDTM ở khu vực nông thôn bằng những mô hình mới, giải pháp thanh toán phù hợp; tăng cường quản lý, giám sát đối với các hệ thống thanh toán quan trọng, các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới.

Ba là, các tổ chức tín dụng cần đặc biệt quan tâm khai thác và có giải pháp để phát triển dịch vụ TTKDTM, nắm bắt cơ hội và tiếp tục thực hiện kết hợp với công tác marketing và đẩy mạnh công tác truyền thông để tận dụng thời cơ trong phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng TTKDTM hiện nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thông tin được công bố trên website: http://www.sbv.gov.vn

2. https://tinnhanhchungkhoan.vn/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-co-hoi-vuot-len-post253507.html

3. https://thitruongtaichinhtiente.vn/day-manh-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-trong-linh-vuc-dich-vu-cong-ket-qua-va-mot-so-khuyen-nghi-29007.html

4. http://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/xu-huong-phat-trien-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-tai-viet-nam-318136.html

5. https://thitruongtaichinhtiente.vn/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-co-hoi-de-phat-trien-dot-pha-29107.html

6. https://thoibaonganhang.vn/thuc-day-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-thach-thuc-va-giai-phap-105770.html

7. World Payments Report 2020.

8. Capgemini Financial Services Analysis, 2020.


ThS. Lê Hữu Hưng

NHNN Chi nhánh thành phố Cần Thơ


Tạp chí Ngân hàng số 5/2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Metaverse ngân hàng và dịch vụ tài chính nhập vai là xu hướng mới đầy tiềm năng, hứa hẹn tái định nghĩa trải nghiệm ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Ứng dụng và tiềm năng của bản sao số khách hàng trong ngành Ngân hàng

Sự xuất hiện của bản sao số khách hàng đánh dấu bước chuyển đổi căn bản trong ngành Ngân hàng, từ mô hình quản lý khách hàng phản ứng sang chiến lược chủ động dựa trên dự đoán và tương tác cá nhân hóa sâu. Bằng cách xây dựng các mô hình ảo động, bản sao số khách hàng cho phép ngân hàng mô phỏng hành vi, dự báo nhu cầu và phân tích động lực đằng sau quyết định tài chính của từng cá nhân. Giá trị cốt lõi của bản sao số khách hàng nằm ở khả năng siêu cá nhân hóa dịch vụ, thúc đẩy lòng trung thành và tối ưu hóa giá trị vòng đời khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý rủi ro và đổi mới sản phẩm.
Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Vai trò của trí tuệ nhân tạo và học máy đối với phát hiện gian lận tài chính trong ngân hàng số

Bài nghiên cứu này đã nêu rõ vai trò chuyển đổi của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận, nhấn mạnh khả năng phân tích tập dữ liệu giao dịch khổng lồ, xác định các điểm bất thường và tăng cường bảo mật ngân hàng số... Việc trí tuệ nhân tạo và học máy được áp dụng rộng rãi sẽ phụ thuộc vào cách các tổ chức tài chính điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng hiệu quả hơn với các mô hình đang ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn bởi các quy định. Sự thành công của trí tuệ nhân tạo và học máy trong phát hiện gian lận sẽ được quyết định bởi việc đổi mới công nghệ, chia sẻ thông tin tình báo về gian lận và các biện pháp quy định nhằm cân bằng giữa đạo đức trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong ngân hàng số.
Xem thêm
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng