Tại sao các ngân hàng trung ương mua vàng?

Quốc tế
Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022.
aa

Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022. Năm 2024, trong số 70 NHTW được Hội đồng Vàng thế giới (World Gold Council - WGC) tiến hành khảo sát thì có gần 1/3 có ý định bổ sung dự trữ vàng - đây là tỉ lệ cao nhất trong thời gian sáu năm qua.




Ảnh minh họa, nguồn Internet


Theo báo cáo năm 2024 của WGC, cuối năm 2023, các NHTW đã bổ sung thêm 1.037 tấn vàng dự trữ, đây là kỷ lục thứ hai sau năm 2022 (1.082 tấn). Trên cơ sở số liệu từ khảo sát của WGC đối với 70 NHTW từ tháng 2 đến tháng 4/2024, có tới 29% các NHTW có ý định tiếp tục mua vàng trong 12 tháng tới. Đây là tỉ lệ cao nhất kể từ năm 2018, khi WGC bắt đầu tiến hành khảo sát. Năm 2023, 24% NHTW dự định bổ sung dự trữ vàng và năm 2019 - chỉ 8%. (Biểu đồ 1).

Đồng thời, 81% NHTW được khảo sát trong năm 2024 cho rằng, dự trữ vàng của các NHTW trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong năm tới - đây cũng là tỉ lệ cao nhất trong sáu năm qua (phần còn lại 19% NHTW tin rằng dự trữ vàng sẽ không thay đổi). (Biểu đồ 2)

Biểu đồ 1: Kỳ vọng thay đổi dự trữ vàng của NHTW trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 2: Dự trữ vàng của các NHTW trên toàn cầu trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Bảo hiểm rủi ro

Trong những năm qua, các NHTW coi vị thế lịch sử của vàng là lý do chính để mua vàng. Từ xa xưa, người dân thuộc mọi nền văn hóa đều coi trọng vàng và những nhà cai trị tích trữ nó để củng cố vị thế và quyền lực kinh tế của họ. Ngoài vai trò là tiền, vàng còn là một mặt hàng tương đối khan hiếm (ví dụ như so với đồng hoặc sắt). Việc vàng được sử dụng trong nhiều thế kỷ làm thước đo giá trị đã mang lại cho nó một vị trí lịch sử vững chắc.

Nhưng trong cuộc khảo sát năm 2024, tầm quan trọng (được xếp hạng theo tổng của các mức “liên quan cao” và “có liên quan”) của nguyên nhân lịch sử trên đã giảm xuống vị trí thứ năm (46% cho rằng có liên quan cao và 25% cho rằng có liên quan). Và nhân tố quan trọng nhất khuyến khích các NHTW mua vàng là khả năng của vàng trong phòng ngừa lạm phát và bảo toàn giá trị của các khoản đầu tư vào vàng trong dài hạn (42% cho rằng có liên quan cao và 46% cho rằng có liên quan).


Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy, có 5 lý do hàng đầu khiến các NHTW mua vàng như sau: (i) Nơi bảo tồn giá trị dài hạn và phòng ngừa lạm phát (88%); (ii) Tài sản chống khủng hoảng (82%); (iii) Phương tiện đa dạng hóa danh mục đầu tư (76%); (iv) Tài sản không có rủi ro vỡ nợ (73%); và (v) Vị trí lịch sử của vàng (71%) (Biểu đồ 3).


Biểu đồ 3: Các nhân tố tác động đến việc mua vàng của NHTW


Nguồn: WGC (2024)


Cụ thể, theo kết quả khảo sát vào năm 2023, lý do đầu tiên các NHTW mua vàng vì coi đây là một biện pháp bảo hiểm chống lạm phát và bảo tồn giá trị dài hạn, được chỉ ra bởi 27% NHTW ở các nền kinh tế phát triển và 89% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển; tương ứng năm 2024, lý do này được chỉ ra bởi 83% NHTW các nền kinh tế phát triển và 90% các nền kinh tế đang phát triển (Biểu đồ 4 và 5); vàng là một tài sản có nguồn cung hạn chế (nó không thể được “phát hành thêm” theo quyết định của chính phủ), điều này khiến nó có khả năng chống lại lạm phát. Lý do thứ hai các NHTW mua vàng vì vàng được coi là tài sản chống khủng hoảng, là tài sản trú ẩn an toàn, một giải pháp thay thế cho việc đầu tư vào tài sản tài chính trong những thời điểm không ổn định. Cả hai lý do trên đều được hơn 80% NHTW ghi nhận (Biểu đồ 5).

Đứng ở vị trí cuối cùng trong danh mục 15 lý do nêu ra trong khảo sát năm 2023 là chính sách phi đô la hóa: Không một NHTW nào đánh giá nó có tương quan cao; 11% cho rằng nó có liên quan một chút; còn đại đa số (68%) cho rằng nó không liên quan; chỉ có NHTW các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra lý do này là có liên quan. Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát năm 2024, lý do này cũng đã được 6% NHTW các nền kinh tế phát triển ghi nhận (Biểu đồ 3; 4 và 5).

Biểu đồ 4: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW
phân theo hai nhóm nước năm 2023


Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 5: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW phân theo nhóm nước năm 2024


Nguồn: WGC (2024)


Sự khác biệt và hội tụ giữa các nước phát triển và đang phát triển

Có sự khác biệt đáng chú ý giữa NHTW ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về động cơ mua vàng. Đồng thời, một số lý do trước đây chủ yếu liên quan đến NHTW của các nền kinh tế đang phát triển thì vào năm 2024, đã trở thành vấn đề tương tự đối với NHTW của các nền kinh tế phát triển (Biểu đồ 5). Cụ thể:

Thứ nhất, hơn một nửa số NHTW được khảo sát đưa ra lý do mua vàng do lo ngại về rủi ro tài chính hệ thống (62%) và không có rủi ro chính trị đối với vàng như một tài sản (54%); trong khi chỉ có 33% NHTW các nền kinh tế phát triển đồng tình với hai lý do này.

Thứ hai, vàng được coi như một công cụ của chính sách tiền tệ, mua vàng do tâm lý lo ngại về các biện pháp trừng phạt và kỳ vọng về những thay đổi trong hệ thống tiền tệ quốc tế được 23% đến 33% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra; trong khi đó, không có NHTW thuộc các nền kinh tế phát triển đề cập đến lý do này.

Thứ ba, các NHTW mua vàng vì nó được sản xuất trong nước và được độc quyền bởi NHTW, lý do này được chỉ ra bởi 44% NHTW các nền kinh tế đang phát triển, trong khi tỉ lệ này ở NHTW các nền kinh tế phát triển là 0%.

Thứ tư, lý do vàng đã trở nên quan trọng như một phương pháp đa dạng hóa rủi ro địa chính trị được chỉ ra bởi 67% NHTW các nền kinh tế phát triển và 64% NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Đối với NHTW các nền kinh tế phát triển, tầm quan trọng của nhân tố này đã tăng hơn 1,5 lần trong năm, khiến vị thế của hai nhóm nước xích lại gần nhau hơn (1 năm trước đó, nhân tố rủi ro địa chính trị được 45% NHTW các nền kinh tế phát triển và 61% các nền kinh tế đang phát triển đồng tình).

Thứ năm, số lượng NHTW các nền kinh tế phát triển bắt đầu xem xét vàng như một tài sản có tính thanh khoản cao tăng gấp 2,2 lần so với năm trước (61% so với 27% một năm trước đó; câu trả lời của NHTW các nền kinh tế đang phát triển lần lượt là 67% và 72%). Nếu xét đến tỉ trọng NHTW các nền kinh tế phát triển đánh giá sự đa dạng hóa danh mục đầu tư và “đặc tính chống khủng hoảng” của tài sản này là một trong các lý do mua vàng ngày càng tăng thì có vẻ như các nền kinh tế phát triển đã bắt đầu đánh giá cao vai trò tài chính của vàng so với những năm trước đây.

WGC lưu ý rằng, sự hội tụ quan điểm của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về vai trò của vàng trước sự bất ổn địa chính trị và những lo ngại về ổn định tài chính cho thấy rõ các bối cảnh kinh tế và chiến lược khó khăn mà cả hai nhóm quốc gia phải đối mặt.

Vàng so với Đô la Mỹ

Dự báo của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về triển vọng tỉ trọng USD và vàng trong cơ cấu dự trữ quốc tế nhìn chung là giống nhau - phần lớn dự đoán tỉ trọng USD sẽ giảm và vàng sẽ tăng; nhưng khác nhau về quy mô - đại diện của các nền kinh tế phát triển có kỳ vọng bảo thủ hơn.

Một là, gần 2/3 (62%) NHTW được khảo sát năm 2024 kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ quốc tế sẽ giảm trong 5 năm tới, tăng từ 55% năm 2023 và 42% năm 2022; 20% kỳ vọng tỉ lệ này sẽ tăng, 18% kỳ vọng tỉ trọng này không đổi so với tỉ trọng dự trữ bằng USD hiện tại là 49% (Biểu đồ 6).

Biểu đồ 6: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới

Nguồn: WGC (2024)


Hai là, NHTW các nền kinh tế đang phát triển có thiên hướng bi quan hơn về vai trò dự trữ của USD với 64% kì vọng tỉ trọng USD sẽ giảm so với mức 56% đối với NHTW các nền kinh tế phát triển. Trong khi 30% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ không thay đổi trong vòng 5 năm tới thì chỉ có 11% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tỉ lệ các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển tin rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ sụt giảm đã tăng từ 46% vào năm 2023 lên 56% vào năm 2024 (Biểu đồ 7). Điều này phản ánh tâm lý ngày càng bi quan về triển vọng tỉ trọng USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu ngay cả với các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển.

Biểu đồ 7: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước


Nguồn: WGC (2024)


Ba là, 69% NHTW (46% năm 2022 và 62% năm 2023) cũng dự đoán tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế toàn cầu sẽ tăng từ mức 16% hiện tại (Biểu đồ 8); trong đó, 75% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển kỳ vọng điều này so với mức 57% ở NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Trong khi đó, 35% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế sẽ không thay đổi trong 5 năm tới, quan điểm này chỉ được 9% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển đồng tình (Biểu đồ 9).

Biểu đồ 8: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới


Nguồn: WGC (2024)


Biểu đồ 9: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước

Nguồn: WGC (2024)


WGC (2024) dẫn lời một đáp viên trong cuộc khảo sát: “Vai trò của vàng như một công cụ phòng ngừa lạm phát, biến động thị trường và rủi ro địa chính trị sẽ tăng dần, bất chấp lãi suất toàn cầu tăng, nếu môi trường lạm phát, bất ổn tài chính và/hoặc căng thẳng địa chính trị tiếp tục diễn ra như hiện nay”.

Tóm lại, căng thẳng địa chính trị và các nhân tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và lãi suất được nhiều nhà quản lý dự trữ ngoại hối của các NHTW quan tâm đặc biệt. NHTW các nền kinh tế đang phát triển đã bày tỏ mối lo ngại thường trực về tác động của rủi ro địa chính trị và sự bất ổn tài chính tiềm tàng đối với các quyết định quản lý dự trữ của họ; trong đó, nhiều NHTW xem vàng như một phương thức để quản lý các rủi ro đó. Tương lai của hệ thống tiền tệ quốc tế tiếp tục thay đổi, cùng với việc NHTW bày tỏ ít tin tưởng hơn vào sự thống trị lâu dài của USD. Với những xu hướng này và môi trường đầu tư luôn thay đổi, nhu cầu vàng từ các NHTW trên toàn cầu chắc chắn vẫn mạnh mẽ trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo:

World Gold Council (2024). 2024 Central Bank Gold Reserves Survey. https://www.gold.org/goldhub/data/2024-central-bank-gold-reserves-survey

TS. Nghiêm Văn Trọng, Nhật Trung
Trường Đại học Hòa Bình
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Xem thêm
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng