Tại sao các ngân hàng trung ương mua vàng?

Quốc tế
Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022.
aa

Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022. Năm 2024, trong số 70 NHTW được Hội đồng Vàng thế giới (World Gold Council - WGC) tiến hành khảo sát thì có gần 1/3 có ý định bổ sung dự trữ vàng - đây là tỉ lệ cao nhất trong thời gian sáu năm qua.




Ảnh minh họa, nguồn Internet


Theo báo cáo năm 2024 của WGC, cuối năm 2023, các NHTW đã bổ sung thêm 1.037 tấn vàng dự trữ, đây là kỷ lục thứ hai sau năm 2022 (1.082 tấn). Trên cơ sở số liệu từ khảo sát của WGC đối với 70 NHTW từ tháng 2 đến tháng 4/2024, có tới 29% các NHTW có ý định tiếp tục mua vàng trong 12 tháng tới. Đây là tỉ lệ cao nhất kể từ năm 2018, khi WGC bắt đầu tiến hành khảo sát. Năm 2023, 24% NHTW dự định bổ sung dự trữ vàng và năm 2019 - chỉ 8%. (Biểu đồ 1).

Đồng thời, 81% NHTW được khảo sát trong năm 2024 cho rằng, dự trữ vàng của các NHTW trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong năm tới - đây cũng là tỉ lệ cao nhất trong sáu năm qua (phần còn lại 19% NHTW tin rằng dự trữ vàng sẽ không thay đổi). (Biểu đồ 2)

Biểu đồ 1: Kỳ vọng thay đổi dự trữ vàng của NHTW trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 2: Dự trữ vàng của các NHTW trên toàn cầu trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Bảo hiểm rủi ro

Trong những năm qua, các NHTW coi vị thế lịch sử của vàng là lý do chính để mua vàng. Từ xa xưa, người dân thuộc mọi nền văn hóa đều coi trọng vàng và những nhà cai trị tích trữ nó để củng cố vị thế và quyền lực kinh tế của họ. Ngoài vai trò là tiền, vàng còn là một mặt hàng tương đối khan hiếm (ví dụ như so với đồng hoặc sắt). Việc vàng được sử dụng trong nhiều thế kỷ làm thước đo giá trị đã mang lại cho nó một vị trí lịch sử vững chắc.

Nhưng trong cuộc khảo sát năm 2024, tầm quan trọng (được xếp hạng theo tổng của các mức “liên quan cao” và “có liên quan”) của nguyên nhân lịch sử trên đã giảm xuống vị trí thứ năm (46% cho rằng có liên quan cao và 25% cho rằng có liên quan). Và nhân tố quan trọng nhất khuyến khích các NHTW mua vàng là khả năng của vàng trong phòng ngừa lạm phát và bảo toàn giá trị của các khoản đầu tư vào vàng trong dài hạn (42% cho rằng có liên quan cao và 46% cho rằng có liên quan).


Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy, có 5 lý do hàng đầu khiến các NHTW mua vàng như sau: (i) Nơi bảo tồn giá trị dài hạn và phòng ngừa lạm phát (88%); (ii) Tài sản chống khủng hoảng (82%); (iii) Phương tiện đa dạng hóa danh mục đầu tư (76%); (iv) Tài sản không có rủi ro vỡ nợ (73%); và (v) Vị trí lịch sử của vàng (71%) (Biểu đồ 3).


Biểu đồ 3: Các nhân tố tác động đến việc mua vàng của NHTW


Nguồn: WGC (2024)


Cụ thể, theo kết quả khảo sát vào năm 2023, lý do đầu tiên các NHTW mua vàng vì coi đây là một biện pháp bảo hiểm chống lạm phát và bảo tồn giá trị dài hạn, được chỉ ra bởi 27% NHTW ở các nền kinh tế phát triển và 89% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển; tương ứng năm 2024, lý do này được chỉ ra bởi 83% NHTW các nền kinh tế phát triển và 90% các nền kinh tế đang phát triển (Biểu đồ 4 và 5); vàng là một tài sản có nguồn cung hạn chế (nó không thể được “phát hành thêm” theo quyết định của chính phủ), điều này khiến nó có khả năng chống lại lạm phát. Lý do thứ hai các NHTW mua vàng vì vàng được coi là tài sản chống khủng hoảng, là tài sản trú ẩn an toàn, một giải pháp thay thế cho việc đầu tư vào tài sản tài chính trong những thời điểm không ổn định. Cả hai lý do trên đều được hơn 80% NHTW ghi nhận (Biểu đồ 5).

Đứng ở vị trí cuối cùng trong danh mục 15 lý do nêu ra trong khảo sát năm 2023 là chính sách phi đô la hóa: Không một NHTW nào đánh giá nó có tương quan cao; 11% cho rằng nó có liên quan một chút; còn đại đa số (68%) cho rằng nó không liên quan; chỉ có NHTW các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra lý do này là có liên quan. Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát năm 2024, lý do này cũng đã được 6% NHTW các nền kinh tế phát triển ghi nhận (Biểu đồ 3; 4 và 5).

Biểu đồ 4: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW
phân theo hai nhóm nước năm 2023


Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 5: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW phân theo nhóm nước năm 2024


Nguồn: WGC (2024)


Sự khác biệt và hội tụ giữa các nước phát triển và đang phát triển

Có sự khác biệt đáng chú ý giữa NHTW ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về động cơ mua vàng. Đồng thời, một số lý do trước đây chủ yếu liên quan đến NHTW của các nền kinh tế đang phát triển thì vào năm 2024, đã trở thành vấn đề tương tự đối với NHTW của các nền kinh tế phát triển (Biểu đồ 5). Cụ thể:

Thứ nhất, hơn một nửa số NHTW được khảo sát đưa ra lý do mua vàng do lo ngại về rủi ro tài chính hệ thống (62%) và không có rủi ro chính trị đối với vàng như một tài sản (54%); trong khi chỉ có 33% NHTW các nền kinh tế phát triển đồng tình với hai lý do này.

Thứ hai, vàng được coi như một công cụ của chính sách tiền tệ, mua vàng do tâm lý lo ngại về các biện pháp trừng phạt và kỳ vọng về những thay đổi trong hệ thống tiền tệ quốc tế được 23% đến 33% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra; trong khi đó, không có NHTW thuộc các nền kinh tế phát triển đề cập đến lý do này.

Thứ ba, các NHTW mua vàng vì nó được sản xuất trong nước và được độc quyền bởi NHTW, lý do này được chỉ ra bởi 44% NHTW các nền kinh tế đang phát triển, trong khi tỉ lệ này ở NHTW các nền kinh tế phát triển là 0%.

Thứ tư, lý do vàng đã trở nên quan trọng như một phương pháp đa dạng hóa rủi ro địa chính trị được chỉ ra bởi 67% NHTW các nền kinh tế phát triển và 64% NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Đối với NHTW các nền kinh tế phát triển, tầm quan trọng của nhân tố này đã tăng hơn 1,5 lần trong năm, khiến vị thế của hai nhóm nước xích lại gần nhau hơn (1 năm trước đó, nhân tố rủi ro địa chính trị được 45% NHTW các nền kinh tế phát triển và 61% các nền kinh tế đang phát triển đồng tình).

Thứ năm, số lượng NHTW các nền kinh tế phát triển bắt đầu xem xét vàng như một tài sản có tính thanh khoản cao tăng gấp 2,2 lần so với năm trước (61% so với 27% một năm trước đó; câu trả lời của NHTW các nền kinh tế đang phát triển lần lượt là 67% và 72%). Nếu xét đến tỉ trọng NHTW các nền kinh tế phát triển đánh giá sự đa dạng hóa danh mục đầu tư và “đặc tính chống khủng hoảng” của tài sản này là một trong các lý do mua vàng ngày càng tăng thì có vẻ như các nền kinh tế phát triển đã bắt đầu đánh giá cao vai trò tài chính của vàng so với những năm trước đây.

WGC lưu ý rằng, sự hội tụ quan điểm của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về vai trò của vàng trước sự bất ổn địa chính trị và những lo ngại về ổn định tài chính cho thấy rõ các bối cảnh kinh tế và chiến lược khó khăn mà cả hai nhóm quốc gia phải đối mặt.

Vàng so với Đô la Mỹ

Dự báo của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về triển vọng tỉ trọng USD và vàng trong cơ cấu dự trữ quốc tế nhìn chung là giống nhau - phần lớn dự đoán tỉ trọng USD sẽ giảm và vàng sẽ tăng; nhưng khác nhau về quy mô - đại diện của các nền kinh tế phát triển có kỳ vọng bảo thủ hơn.

Một là, gần 2/3 (62%) NHTW được khảo sát năm 2024 kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ quốc tế sẽ giảm trong 5 năm tới, tăng từ 55% năm 2023 và 42% năm 2022; 20% kỳ vọng tỉ lệ này sẽ tăng, 18% kỳ vọng tỉ trọng này không đổi so với tỉ trọng dự trữ bằng USD hiện tại là 49% (Biểu đồ 6).

Biểu đồ 6: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới

Nguồn: WGC (2024)


Hai là, NHTW các nền kinh tế đang phát triển có thiên hướng bi quan hơn về vai trò dự trữ của USD với 64% kì vọng tỉ trọng USD sẽ giảm so với mức 56% đối với NHTW các nền kinh tế phát triển. Trong khi 30% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ không thay đổi trong vòng 5 năm tới thì chỉ có 11% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tỉ lệ các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển tin rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ sụt giảm đã tăng từ 46% vào năm 2023 lên 56% vào năm 2024 (Biểu đồ 7). Điều này phản ánh tâm lý ngày càng bi quan về triển vọng tỉ trọng USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu ngay cả với các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển.

Biểu đồ 7: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước


Nguồn: WGC (2024)


Ba là, 69% NHTW (46% năm 2022 và 62% năm 2023) cũng dự đoán tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế toàn cầu sẽ tăng từ mức 16% hiện tại (Biểu đồ 8); trong đó, 75% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển kỳ vọng điều này so với mức 57% ở NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Trong khi đó, 35% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế sẽ không thay đổi trong 5 năm tới, quan điểm này chỉ được 9% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển đồng tình (Biểu đồ 9).

Biểu đồ 8: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới


Nguồn: WGC (2024)


Biểu đồ 9: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước

Nguồn: WGC (2024)


WGC (2024) dẫn lời một đáp viên trong cuộc khảo sát: “Vai trò của vàng như một công cụ phòng ngừa lạm phát, biến động thị trường và rủi ro địa chính trị sẽ tăng dần, bất chấp lãi suất toàn cầu tăng, nếu môi trường lạm phát, bất ổn tài chính và/hoặc căng thẳng địa chính trị tiếp tục diễn ra như hiện nay”.

Tóm lại, căng thẳng địa chính trị và các nhân tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và lãi suất được nhiều nhà quản lý dự trữ ngoại hối của các NHTW quan tâm đặc biệt. NHTW các nền kinh tế đang phát triển đã bày tỏ mối lo ngại thường trực về tác động của rủi ro địa chính trị và sự bất ổn tài chính tiềm tàng đối với các quyết định quản lý dự trữ của họ; trong đó, nhiều NHTW xem vàng như một phương thức để quản lý các rủi ro đó. Tương lai của hệ thống tiền tệ quốc tế tiếp tục thay đổi, cùng với việc NHTW bày tỏ ít tin tưởng hơn vào sự thống trị lâu dài của USD. Với những xu hướng này và môi trường đầu tư luôn thay đổi, nhu cầu vàng từ các NHTW trên toàn cầu chắc chắn vẫn mạnh mẽ trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo:

World Gold Council (2024). 2024 Central Bank Gold Reserves Survey. https://www.gold.org/goldhub/data/2024-central-bank-gold-reserves-survey

TS. Nghiêm Văn Trọng, Nhật Trung
Trường Đại học Hòa Bình
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng