Tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, Những kết quả và triển vọng

Nghiên cứu - Trao đổi
Khi nền kinh tế bộc lộ các vấn đề yếu kém cần thay đổi thì việc tái cơ cấu nền kinh tế là điều cần thiết ở các quốc gia. Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế được Chính phủ triển khai từ 2011 đến nay. T...
aa

Khi nền kinh tế bộc lộ các vấn đề yếu kém cần thay đổi thì việc tái cơ cấu nền kinh tế là điều cần thiết ở các quốc gia. Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế được Chính phủ triển khai từ 2011 đến nay. Tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, trong đó có các ngân hàng thương mại là một trong những nội dung đóng vai trò quan trọng để đạt mục tiêu nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bài viết này bàn về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn từ 2011 - đến nay với những kết quả đạt được cùng với những vấn đề đặt ra hiện nay để từ đó đề xuất các khuyến nghị chính sách.

1. Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng

Từ năm 2011, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn khi kinh tế tăng trưởng có xu hướng chậm lại cùng với nhiều rủi ro của hệ thống ngân hàng được tích lũy từ nhiều năm trước bắt đầu có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) gặp khó khăn về thanh khoản, nợ xấu cao có nguy cơ đe dọa đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Do đó, tái cơ cấu, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn này. Ngày 1/3/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định 254/QĐ-TTg Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 ban hành Đề án Xử lý nợ xấu. Theo Quyết định 254, trọng tâm là chấn chỉnh làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời tại các ngân hàng, thực hiện sát nhập, hợp nhất, mua lại, các TCTD nhằm bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Theo Quyết định 843, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) nhằm xử lý nợ xấu đang ở mức cao tại nhiều ngân hàng thương mại bao gồm nợ xấu cấp tín dụng, nợ xấu mua trái phiếu doanh nghiệp và nợ xấu ủy thác cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp.

Bên cạnh những bất ổn của hệ thống ngân hàng thì cơ cấu nền kinh tế và mô hình tăng trưởng nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém khi tăng trưởng kinh tế không bền vững và có xu hướng giảm dần, lạm phát cao, số doanh nghiệp giải thể, phá sản nhiều… Do đó, ngày 19/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 339/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020. Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, Chính phủ luôn coi ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại có cổ phần chi phối của Nhà nước phải thực sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các TCTD. Các TCTD yếu kém cần có phương án xử lý thích hợp. Chủ trương về tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng được thể hiện xuyên suốt trong những năm tiếp theo trong Nghị Quyết 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII). Theo Nghị quyết 05, nhiệm vụ tái cơ cấu thị trường tài chính tiếp tục được triển khai, trọng tâm là tái cơ cấu các TCTD, lành mạnh hóa thị trường tài chính, xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo, ban hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro các TCTD.

Để tháo gỡ các vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các TCTD, Nghị quyết 42/2017/QH14, ngày 21/6/2017 được ban hành trong đó đã có một số quyền được mở rộng hơn tạo điều kiện cho việc xử lý nợ xấu của các TCTD, như: i) Khẳng định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định; ii) Cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ; iii) Cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm; mở rộng đối tượng mua - bán nợ xấu đối với VAMC; qui định về phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, bất động sản, bị kê biên; qui định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; qui định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm; và phương thức phân bổ lãi dự thu, khoản chênh lệch khi bán nợ xấu của TCTD và VAMC…[1].

Nhìn chung, nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính, Chính phủ, NHNN đã kịp thời ban hành các chính sách nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời tại các ngân hàng đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát. Hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu của Việt Nam đã có bước tiến lớn và dần hoàn thiện, tiến gần hơn với các thông lệ quốc tế.

2. Kết quả thực hiện tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được đảm bảo, ổn định, giảm sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại, không để xảy ra đổ vỡ, phá sản ngân hàng.

Hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng không gây sức ép cho lạm phát, tình hình thanh khoản và lạm phát diễn biến ổn định với rủi ro thấp hơn.

Niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng và đồng VND được củng cố và đảm bảo, không có hiện tượng rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng yếu kém. Lãi suất cho vay có xu hướng giảm dần và ổn định đến nay góp phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí khi vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh.

Dư nợ lĩnh vực phi sản xuất (nhất là cho vay bất động sản và chứng khoán) được kiểm soát và điều chỉnh về mức hợp lý. Đồng thời, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của nhà nước bao gồm, phát triển nông nghiệp, nông thôn; phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ. NHNN cũng đã áp dụng trần lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với các lĩnh vực ưu tiên, thấp hơn so với mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường. Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, thực hiện triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực ưu tiên.

Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại thông qua mua bán, sát nhập các ngân hàng thương mại yếu kém. Có 3 ngân hàng thương mại cổ phần được NHNN mua lại với giá 0 đồng. Đến nay, VNCB, Ocean Bank và GP Bank hiện đã hoạt động bình thường trở lại, thanh khoản tốt, kết quả kinh doanh của ngân hàng đã được cải thiện đáng kể, lỗ hoạt động giảm mạnh qua từng tháng. Đặc biệt, nợ xấu của các ngân hàng đã giảm mạnh. 7 ngân hàng thương mại được sát nhập cũng có tình hình tài chính lành mạnh và kết quả kinh doanh ổn định hơn [2].

Bên cạnh các chính sách giảm lãi suất, cho vay ưu đãi với các đối tượng ưu tiên, các TCTD đã chủ động triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu góp phần làm lành mạnh hóa tình trạng tài chính, giảm nợ xấu trong thời gian qua. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2012 đến cuối tháng 6/2019, hệ thống các TCTD đã xử lý được 937.5 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống chỉ còn 1.91, dưới ngưỡng 2% được đưa ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ban hành 1/1/2019. Kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu quả bước đầu khi số lượng khách hàng trả nợ các khoản được xếp vào nợ xấu tăng lên phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã được cải thiện sau khi Nghị quyết đã bổ sung thêm quyền cho các TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và bán tài sản bảo đảm này theo giá thị trường. Về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 6/2019, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được khoảng 264,06 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 127,641 nghìn tỷ đồng.

3. Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị

Một số vấn đề đặt ra

Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam còn thiếu một thị trường mua bán nợ thực sự khi các TCTD vẫn chủ yếu bán nợ cho VAMC và DATC mà hai công ty này do nhà nước làm chủ sở hữu. Mặc dù, trong Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định các TCTD được bán các khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo liên quan một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Việc mua bán nợ giữa các TCTD với nhau và giữa các nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài với TCTD hiện chưa diễn ra. Bên cạnh đó, các điều kiện để thực hiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ khá cao (tối thiểu vốn điều lệ 100 tỷ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ và tối thiểu 500 tỷ đồng đối với doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch nợ, yêu cầu về quản lý nội bộ), trong khi thị trường vốn chưa phát triển (bên mua nợ muốn bán, chuyển nhượng các khoản nợ còn khó khăn vì chưa có thị trường thứ cấp, các sản phẩm phái sinh như chứng khoản bảo đảm bằng tài sản chưa có dẫn đến không thu hút được các nhà đầu tư mua bán các khoản nợ).

Với những diễn biến khó lường của tình hình kinh tế thế giới hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều tập đoàn có quy mô lớn, điều này dễ dẫn đến gia tăng trực tiếp rủi ro cho các tập đoàn và dễ ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng do ngân hàng có các khoản cho vay tín dụng quy mô lớn đối với các tập đoàn này.

Bên cạnh đó, các diễn biến phức tạp về tình hình chiến tranh thương mại và các rủi ro khác trên toàn cầu như rủi ro từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc ảnh hưởng tới mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đang là những thách thức liên quan tới việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Một số khuyến nghị

Một là, cần có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, các TCTD tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu. Nên nghiên cứu có thể giảm các điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ xấu đối với doanh nghiệp kinh doanh mua bán nợ và các doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch nợ. Ngoài ra, có thể nghiên cứu cho phép các sản phẩm chứng khoán phái sinh đối với các khoản nợ được giao dịch trong thời gian tới để thu hút các nhà đầu tư mua bán các khoản nợ. Thực tế, việc bán nợ cho VAMC thực chất là không phải mua bán hẳn mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn phụ thuộc vào các ngân hàng bán nợ xấu, VAMC chỉ phát hành trái phiếu đặc biệt khi mua các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại để từ đó giảm nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại có thể dùng trái phiếu đặc biệt này để vay tái cấp vốn tại NHNN. Do đó, thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu sẽ giúp cho tiến trình xử lý các khoản nợ xấu được đẩy nhanh hơn.

Hai là, trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại, cần nghiên cứu đánh giá các khoản nợ lớn của các tập đoàn để có các biện pháp can thiệp cần thiết sớm để đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Ba là, trong quá trình tái cơ cấu, các ngân hàng thương mại cần xem xét các biến động của kinh tế thế giới hiện nay để có những chiến lược ứng phó kịp thời. Cần có các chính sách tỷ giá phù hợp để ứng phó kịp thời với việc các nước lớn phá giá tiền tệ cũng như có những biện pháp đồng bộ và phù hợp trong hoạt động mua bán ngoại tệ.

[1]. Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ

http://cafef.vn/nhung-vuong-mac-trong-xu-ly-no-xau-theo-nghi-quyet-42-va-de-xuat-thao-go-20190214113235953.chn

[2]. 7 ngân hàng được sát nhập vào các ngân hàng khác là: Habubank, Western Bank, DaiABank, MDBank, MHBank, Southern Bank, GP Bank

Tài liệu tham khảo:

PGS., TS. Tô Ngọc Hưng (2017). Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hướng tới phát triển bền vững. Tạp chí Ngân hàng số 9 tháng 1-2/2017.

TS. Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.

TS. Cấn Văn Lực (2019). Việt Nam nằm trong danh sách theo dõi khả năng thao túng tiền tệ - điều này có ý nghĩa gì?. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.

J. Stiglitz và S. Yusuf (2002). Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

Hồ Ngọc Tú

TCNH số 20/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc