Sắp đưa vào thử nghiệm và quản lý chính thức hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam

Chính sách
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) mới đây đã công bố lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Cho vay ngang hàng (P2P Lending) là một trong những lĩnh vực được phép thử nghiệm.
aa

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) mới đây đã công bố lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Cho vay ngang hàng (P2P Lending) là một trong những lĩnh vực được phép thử nghiệm. Trước mắt, Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát sẽ có những quy định rõ ràng về điều kiện và tiêu chuẩn hoạt động P2P Lending, làm cơ sở cho cơ quan nhà nước thanh lọc thị trường, loại bỏ những đơn vị trá hình vận hành App cho vay theo kiểu tín dụng đen đang gây hệ lụy tiêu cực cho thị trường.

Theo đó, các giải pháp tham gia vào Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech (Cơ chế thử nghiệm) sẽ được đặt dưới sự giám sát thường xuyên, liên tục của cơ quan quản lý ngân hàng - tài chính nhằm hạn chế ở mức thấp nhất rủi ro, hệ lụy phát sinh. Thông tin, dữ liệu, kết quả thử nghiệm đối với các sản phẩm, dịch vụ tham gia vào Cơ chế thử nghiệm sẽ là cơ sở, căn cứ để cơ quan quản lý, giám sát cũng như nhà cung ứng dịch vụ tiềm năng tham gia vào Cơ chế thử nghiệm đánh giá tính khả thi, lợi ích, rủi ro của giải pháp, từ đó đưa ra quyết định, cách thức ứng xử phù hợp tiếp theo.

Nội dung trọng tâm của Dự thảo Nghị định tập trung thúc đẩy các giải pháp sáng tạo, đồng thời đảm bảo kiểm soát rủi ro, bảo vệ người tiêu dùng và duy trì ổn định tài chính.

Sắp có Cơ chế thử nghiệm hoạt động P2P Lending

Theo đó, các giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng được phép thử nghiệm tại Cơ chế thử nghiệm gồm những lĩnh vực như cấp tín dụng trên nền tảng công nghệ, chấm điểm tín dụng, chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng (API). Ngoài ra còn có P2P Lending, ứng dụng công nghệ chuỗi khối, sổ cái phân tán (Blockchain Technology - DLT) trong hoạt động ngân hàng, ứng dụng các công nghệ khác trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, triển khai mô hình hợp tác kinh doanh đổi mới sáng tạo.


Thời gian thử nghiệm các giải pháp Fintech tối đa là 02 năm tùy từng giải pháp và lĩnh vực cụ thể, tính từ thời điểm được NHNN cấp Giấy chứng nhận tham gia Cơ chế thử nghiệm.

Về điều kiện và tiêu chí tham gia Cơ chế thử nghiệm: Là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam; không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành; không thuộc nhóm tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt theo Luật Các tổ chức tín dụng; người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức đề nghị tham gia Cơ chế thử nghiệm phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc lĩnh vực phụ trách. Người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc (Giám đốc) của công ty Fintech đăng ký tham gia Cơ chế thử nghiệm không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và an ninh mạng. Đội ngũ cán bộ thực hiện giải pháp Fintech thử nghiệm có trình độ chuyên môn về lĩnh vực đảm nhiệm.

Dự thảo Nghị định cũng nêu rõ công ty P2P Lending trong quá trình tham gia Cơ chế thử nghiệm không được thực hiện các hành vi như cung cấp biện pháp bảo đảm tiền vay; cung cấp dịch vụ môi giới thông tin cho việc vay tiền phục vụ hoạt động đầu tư cổ phiếu và các hoạt động mang tính rủi ro cao khác; sử dụng trái phép nguồn tiền từ khách hàng,...

Bên cạnh đó, giải pháp P2P Lending đề nghị tham gia Cơ chế thử nghiệm phải thỏa mãn các tiêu chí quy định tại Dự thảo Nghị định như: (i) Là giải pháp mà nội dung kỹ thuật và nghiệp vụ hoàn toàn chưa được quy định tại bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào hoặc quy định pháp lý hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho việc triển khai, áp dụng; (ii) Là giải pháp có tính đổi mới sáng tạo, đem lại lợi ích, giá trị gia tăng cho người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính; (iii) Là giải pháp đã thiết kế, xây dựng được khung quản lý rủi ro, hạn chế tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng và hoạt động ngân hàng - tiền tệ - ngoại hối; đã xây dựng phương án hợp lý về xử lý, khắc phục các rủi ro xảy ra trong quá trình thử nghiệm phù hợp; (iv) Là giải pháp đã được tổ chức tham gia Cơ chế thử nghiệm thực hiện các biện pháp rà soát, đánh giá đầy đủ, trên các khía cạnh hoạt động và chức năng, công dụng, tính hữu ích; (v) Là giải pháp có tính khả thi để có thể cung ứng ra thị trường sau khi hoàn thành quá trình thử nghiệm.

Giới chuyên gia đánh giá, khuôn khổ pháp lý Cơ chế thử nghiệm phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới việc ban hành khuôn khổ pháp lý và quản lý chính thức (trong đó có Cơ chế thử nghiệm đối với hoạt động P2P Lending).

Cụ thể, Cơ chế thử nghiệm sẽ mở ra cơ hội để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực P2P Lending bứt phá, phát huy hết tiềm lực, phát triển tương xứng với quy mô của thị trường và tận dụng lợi thế của công nghệ 4.0. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý thử nghiệm sẽ giúp các công ty P2P Lending đẩy mạnh hỗ trợ nhóm khách hàng yếu thế không tiếp cận được kênh tín dụng chính thức, thúc đẩy tài chính toàn diện, đẩy lùi tín dụng đen... Việc ban hành hành lang pháp lý thử nghiệm P2P Lending cũng giúp thanh lọc thị trường, loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, đơn vị hoạt động trá hình đang gây nhiễu loạn thị trường, làm mất niềm tin của người tiêu dùng, giảm uy tín của lĩnh vực P2P Lending tại Việt Nam. Cơ chế thử nghiệm sẽ có những quy định rõ ràng về điều kiện và tiêu chuẩn hoạt động P2P Lending, làm cơ sở cho cơ quan nhà nước thanh lọc thị trường, loại bỏ những đơn vị trá hình vận hành App (ứng dụng) cho vay theo kiểu tín dụng đen đang gây hệ lụy tiêu cực cho thị trường.


Theo NHNN, P2P Lending là hoạt động cho vay trên nền tảng công nghệ được thiết kế và thực hiện dựa trên ứng dụng Fintech do công ty P2P Lending thực hiện với vai trò trung gian kết nối người đi vay với người cho vay. Công ty P2P Lending là công ty Fintech cung cấp giải pháp P2P Lending ra thị trường.

Số lượng các công ty có hoạt động hoặc tham gia cung ứng dịch vụ, giải pháp Fintech tại Việt Nam đã tăng nhanh, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên khoảng 200 công ty ở thời điểm hiện tại với nhiều mảng, lĩnh vực hoạt động khác nhau như thanh toán, P2P Lending, chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân...

Trong số đó, các công ty hoạt động trong lĩnh vực thanh toán chiếm tỷ trọng lớn với 47 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) đã được NHNN cấp Giấy phép, còn trong lĩnh vực P2P Lending là khoảng hơn 100 công ty với nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài.

Hoạt động P2P Lending xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2016 dưới dạng các công ty Fintech và thường nhắm đến phân khúc đối tượng khách hàng không tiếp cận được với ngân hàng, công ty tài chính.

Theo khảo sát của Vụ Chính sách tiền tệ và Vụ Thanh toán (NHNN), một số mô hình P2P Lending đã và đang triển khai thực hiện tại Việt Nam cho thấy hoạt động P2P Lending tại các công ty đang được triển khai theo 04 mô hình cơ bản sau:

Mô hình 1: Mô hình công ty cầm đồ cho vay online.

Mô hình 2: Mô hình công ty P2P Lending hợp tác với công ty cầm đồ.

Mô hình 3: Mô hình công ty P2P Lending hợp tác với tổng đại lý phát triển khách hàng của công ty tài chính để giới thiệu khách hàng cho công ty tài chính.

Mô hình 4: Mô hình công ty P2P Lending là trung gian kết nối giữa người đi vay cá nhân/tổ chức với người cho vay là cá nhân.

Theo đó, rất ít công ty thực hiện theo đúng mô hình P2P Lending truyền thống trên thế giới (mô hình P2P Lending hợp tác với ngân hàng, mô hình P2P Lending cam kết về lợi nhuận) mà có hiện tượng biến tướng của công ty cầm đồ cho vay online, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Các bên tham gia trong mô hình: Trong 04 mô hình P2P Lending nêu trên có sự tham gia của các bên liên quan, như: Công ty P2P Lending, người đi vay, người cho vay (cá nhân/công ty tài chính/công ty cầm đồ), ngân hàng, công ty cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (ví điện tử), công ty bảo hiểm, công ty thu hồi nợ..., cụ thể:

Công ty P2P Lending: Phát triển nền tảng cho vay trực tuyến (trên website hoặc ứng dụng trên điện thoại di động); áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng để chấm điểm tín nhiệm đối với từng đơn vay; trung gian kết nối giữa người đi vay và người cho vay; tư vấn khoản vay, thực hiện xác thực thông tin về khách hàng và hỗ trợ việc ký hợp đồng, hỗ trợ công tác nhắc nợ, mua bảo hiểm đầu tư cho người cho vay theo sự ủy quyền của người cho vay.

Người đi vay (borrower): Sử dụng dịch vụ do hệ thống của công ty P2P Lending cung cấp; có nghĩa vụ cung cấp các thông tin trung thực, chính xác, chịu trách nhiệm đối với các thông tin cung cấp; trả gốc, lãi, phí đúng hạn...

Người cho vay (lender): Sử dụng dịch vụ do hệ thống của công ty P2P Lending cung cấp; có nghĩa vụ cung cấp các thông tin trung thực, chính xác, chịu trách nhiệm đối với các thông tin cung cấp, được hưởng lãi và phí theo thỏa thuận với người vay...

Trung gian thanh toán: Hợp tác với công ty P2P Lending để cung cấp dịch vụ thanh toán bên trong mô hình P2P Lending, giúp luân chuyển, thanh toán tiền giữa các bên thông qua nghiệp vụ ví điện tử.

Tiến tới thanh lọc thị trường P2P Lending tại Việt Nam

Thực tế, hoạt động P2P Lending nổi lên tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây, một số công ty lấy danh nghĩa mô hình P2P Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức, hiểu biết của người dân để lừa bịp, gian dối, quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mô hình cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi suất “thấp”, điều kiện vay ưu đãi trong khi cách tính và áp dụng mức lãi suất thực tế cao “cắt cổ”, tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân. Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending (công ty P2P Lending và nhà đầu tư, công ty P2P Lending và bên thứ ba, công ty P2P Lending và khách hàng vay…) thiếu rõ ràng, minh bạch, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay nên có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện giữa các bên.

Thời gian qua, cơ quan chức năng liên tục có các cảnh báo nguy cơ biến tướng tín dụng đen của hoạt động cho vay này.

Trên mạng xã hội, hàng loạt các App cho vay tiền trực tuyến xuất hiện công khai với những lời mời chào rất hấp dẫn, kèm theo thủ tục vay tiền rất đơn giản nhằm lôi kéo người vay tham gia. Số tiền họ nhận được thấp hơn nhiều so với số tiền vay và cũng sẽ phải đối mặt với vô vàn kiểu khủng bố tinh thần, đe dọa nếu chẳng may không trả nợ đúng hạn.

Trong dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ chính tới nền kinh tế gửi các bộ, cơ quan ngang bộ lấy ý kiến, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo về hoạt động P2P Lending của nước ngoài hiện đang gia tăng hoạt động tại Việt Nam, có thể gây rủi ro, trong khi nhiều nước đang tăng cường quản lý, thắt chặt và giám sát chặt chẽ. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, cơ quan chức năng liên tục triệt phá các đường dây cho vay nặng lãi, tín dụng đen qua các ứng dụng cho vay trực tuyến trên mạng xã hội.

Trước diễn biến phức tạp của hoạt động cho vay qua App “đội lốt” P2P Lending, nhiều loại tội phạm cho vay nặng lãi, tín dụng đen… đã núp bóng, trá hình hoạt động bất hợp pháp, một số vụ việc đã được cơ quan chức năng xử lý hình sự theo quy định của pháp luật, NHNN đã có công văn chỉ đạo tới các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TCCƯDVTGTT) và các tổ chức tín dụng.

Theo đó, để ngăn ngừa những tác động tiêu cực của hoạt động P2P Lending, NHNN đã có văn bản đề nghị các TCCƯDVTGTT: Tuân thủ đúng quy định của pháp luật về hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ TGTT, không hợp tác cung ứng dịch vụ TGTT cho các công ty P2P Lending có hoạt động vi phạm pháp luật; thường xuyên rà soát các đối tác có hợp tác liên quan đến hoạt động P2P Lending (nếu có) để triển khai thực hiện các giải pháp kiểm soát, xử lý phù hợp. Trường hợp phát hiện những đối tác nào có dấu hiệu vi phạm pháp luật, ngừng ngay việc hợp tác giao dịch dưới mọi hình thức, đồng thời thông báo cho các cơ quan chức năng và các bên liên quan biết để có giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và hạn chế tối đa rủi ro có thể phát sinh theo quy định của pháp luật.

Đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, liên quan đến P2P Lending, NHNN cũng có các công văn cảnh báo các tổ chức tín dụng tăng cường kiểm tra, giám sát việc hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực P2P Lending nhằm ngăn ngừa rủi ro, phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực này. Theo đó, NHNN yêu cầu tổ chức tín dụng: Tuân thủ đúng quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng; rà soát các hợp đồng, thỏa thuận đã ký kết với các đối tác là các công ty cung cấp dịch vụ P2P Lending hoặc có hợp tác liên quan đến hoạt động P2P Lending. Trường hợp phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật của các đối tác này, tổ chức tín dụng phải ngừng ngay việc hợp tác dưới mọi hình thức và tiến hành các thủ tục thanh lý các hợp đồng, thỏa thuận đã ký, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật; đồng thời báo cáo cơ quan chức năng và các bên liên quan để có giải pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật và hạn chế rủi ro có thể phát sinh; thường xuyên rà soát, tăng cường kiểm tra, giám sát trong nội bộ tổ chức tín dụng (bao gồm các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng nếu có) về các rủi ro tiềm ẩn của hoạt động P2P Lending, bao gồm rủi ro pháp lý và các rủi ro khác, trong bối cảnh pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có khung pháp lý cụ thể điều chỉnh hoạt động P2P Lending, nhằm phòng ngừa rủi ro phát sinh.

Bên cạnh đó, NHNN cũng đã đẩy mạnh triển khai các giải pháp truyền thông: Khuyến cáo người dân, doanh nghiệp tìm hiểu kỹ, thận trọng khi tham gia các nền tảng P2P Lending trong bối cảnh chưa có hành lang pháp lý rõ ràng điều chỉnh đối với lĩnh vực này và khuyến nghị người dân tiếp cận vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chính thống, tránh bị lừa đảo, rơi vào vòng xoáy cho vay nặng lãi của tín dụng đen; chỉ đạo tổ chức tín dụng lưu ý về các rủi ro trong hoạt động P2P Lending; thận trọng trong ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các công ty P2P Lending, đảm bảo đúng quy định pháp luật, không ảnh hưởng đến hoạt động, uy tín của tổ chức tín dụng cũng như an toàn của hệ thống ngân hàng.

Cần tăng cường cơ chế quản lý, giám sát để hoạt động P2P Lending trở thành kênh cung ứng vốn hiệu quả

Việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động cho vay qua mạng (quan hệ vay mượn dân sự) cũng như để xử lý vi phạm liên quan đến hoạt động này thuộc trách nhiệm của nhiều bộ, ngành.

Để khuyến khích hoạt động P2P Lending an toàn, trở thành kênh cung ứng vốn hiệu quả cho khách hàng nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, thời gian tới, cần đẩy mạnh một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý quản lý P2P Lending, trong đó phân công cụ thể cơ quan quản lý đầu mối (nên là NHNN và áp dụng các Luật liên quan) và các cơ quan phối hợp, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan.

Thứ hai, về phía các cơ quan quản lý:

(i) NHNN phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an hoàn thiện các quy định, giải pháp về dữ liệu, cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa tổ chức tín dụng và Fintech, Bigtech... để tạo điều kiện cho phát triển hệ sinh thái tài chính số nói chung và P2P Lending nói riêng;

(ii) NHNN, Bộ Công Thương, Bộ Công an cần phối hợp nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư tham gia hoạt động P2P Lending để tránh các hệ lụy kinh tế - xã hội trong trường hợp xảy ra rủi ro. Chẳng hạn như thiết lập các quy định và giám sát tuân thủ về các giới hạn đầu tư so với thu nhập của nhà đầu tư, quy định về giới hạn góp vốn của mỗi nhà đầu tư, quy định về quyền tiếp cận thông tin...; tăng cường quy định và chế tài xử phạt nếu công ty P2P Lending hoạt động vi phạm pháp luật về cho vay (như lãi suất quá cao, đòi nợ kiểu xã hội đen...);

(iii) NHNN cần có quy định chặt chẽ về an toàn hoạt động, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát định kỳ đối với các công ty P2P Lending.

Thứ ba, ở tầm vĩ mô, để hoạt động P2P Lending phát triển an toàn, hiệu quả, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần chú trọng nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia, nhất là cơ sở dữ liệu định danh cá nhân, chính quyền điện tử… cũng như chú trọng yêu cầu về quản lý rủi ro công nghệ thông tin của hệ thống tài chính - ngân hàng, từ đó không chỉ tạo nền tảng quản lý P2P Lending mà còn hỗ trợ cho cả thị trường tài chính - ngân hàng số nói chung.

Thứ tư, ngành Ngân hàng phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, chính quyền các địa phương, các cơ quan báo, đài triển khai mạnh hoạt động truyền thông giáo dục tài chính, hướng đến đối tượng người dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (nơi tín dụng đen diễn biến phức tạp), người yếu thế, người chưa có tài khoản ngân hàng... nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với các sản phẩm tài chính công nghệ, trong đó có P2P Lending. Qua đó, giúp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh, cũng như người dân nói chung nâng cao khả năng nhận thức về dịch vụ P2P Lending, giúp giảm thiểu rủi ro khi sử dụng dịch vụ này cũng như nâng cao các kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng khác.

Thứ năm, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng (trong đó có bảo vệ người tiêu dùng tài chính), nhằm ngăn ngừa rủi ro, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, đảm bảo an toàn, tránh các hệ lụy cho xã hội.

Thời gian tới, khi Cơ chế thử nghiệm được thông qua, NHNN cần có hướng dẫn cụ thể đối với các TCCƯDVTGTT để quá trình triển khai thử nghiệm đạt hiệu quả, an toàn.

Về phía các công ty P2P Lending được tham gia thử nghiệm phải đảm bảo đáp ứng các tiêu chí, điều kiện theo quy định, trong đó cần các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu, năng lực về công nghệ, hệ thống công nghệ thông tin và quản lý rủi ro; đội ngũ quản lý và nhân viên tay nghề cao, am hiểu pháp luật về tín dụng ngân hàng và quy định pháp luật liên quan...

Tài liệu tham khảo:


1. Dự thảo Nghị định quy định Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng.

2. Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn

3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công an: bocongan.gov.vn


Phan Linh (NHNN)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Xem thêm
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng